Anh Hưng gửi dùm em link dơnload với, link ở đầu trang em download không được. Cảm ơn anh!
Chương check mail nhé.
Follow along with the video below to see how to install our site as a web app on your home screen.
Note: This feature may not be available in some browsers.
Anh Hưng gửi dùm em link dơnload với, link ở đầu trang em download không được. Cảm ơn anh!
[FONT="]<o></o>[/FONT] [FONT="]fraction of T cells: phân đoạn tế bào T<o></o>[FONT="]Sự phân tách các lympho bào T cao bất thường có liên quan đến đáp ứng các phân tử MHC giống như đáp ứng với các siêu kháng nguyên (xem chương 14) chứ không phải các đáp ứng đối với kháng nguyên. [/FONT]
[FONT="]<o>[FONT="]Điều này ngụ ý rất rõ ràng là có nhiều dòng tế bào T riêng biệt nhận biết và đáp ứng với một nửa các phân tử MHC dị gen theo kiểu phản ứng chéo.[/FONT]
[FONT="]<o>[FONT="]Sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại tuyến ức, nơi tiền thân của lympho bào T được “huấn luyện” và chọn lọc hoàn toàn không có phân tử MHC nào (bởi vì các kháng nguyên lạ thường bị kẹt ngay cổng vào trực tiếp của các cơ quan bạch huyết ngoại biên). [/FONT]
[FONT="]<o>[FONT="]Làm lộ diện các phân tử MHC ngoại lai gián tiếp có nghĩa là chúng sẽ được nhận biết dưới dạng các kháng nguyên “bình thường”, tức là đã được xử lý ở các APC chuyên biệt và đã lộ diện cho các tế bào T của vật chủ dưới dạng các peptide liên kết với các phân tử MHC của chính vật chủ. [/FONT]
[FONT="]<o>[FONT="]Trường hợp này liên quan chủ yếu đến các tế bào vật chủ, giới hạn là các phân tử MHC CD4+ thuộc nhóm II, vì các tế bào biểu hiện các phân tử MHC ngoại lai đều bị các tế bào vật chủ thực bào và bản thân các phân tử MHC ngoại lai được xử lý ở lysosome và hạt của cơ quan nội bào (endosomal and lysosomal compartment) (xem chương 6). [/FONT]
<o></o>15.7 Có phải các phân tử MHC luôn là mục tiêu của tế bào T vật chủ?
[FONT="] <o>[FONT="]Những kháng nguyên này, nếu có, thường kích thích vật chủ đáp ứng các phân tử MHC chậm hơn và yếu hơn, do đó chúng được gọi là kháng nguyên tương hợp mô yếu (minor histocompatibility antigens).[/FONT]
[FONT="]<o>[FONT="]15.8 Làm thế nào để lập mô hình nhận biết các phân tử MHC và tấn công miễn dịch lên các phân tử MHC in vitro?[/FONT]
<o></o>[/FONT] [FONT="]Nhắc lại rằng trong [/FONT][FONT="]MLR[/FONT][FONT="], người ta trộn lẫn tế bào đơn nhân của vật chủ và cá thể cho trong đĩa nuôi cấy và đánh giá khả năng tăng sinh sử dụng 3H-thymidine. <o>Hãy nhớ lại phản ứng MLR có liên quan đến việc trộn lẫn thể cho và các tế bào đơn nhân của vật chủ trong đĩa dịch nuôi cấy và phân tích khả năng tăng sinh bằng cách bổ sung thêm thymine-H3.
[FONT="]<o>[FONT="]Đáp ứng do sự tăng sinh của nhóm thứ nhất có thể bị ngăn chặn bằng kháng thể đơn dòng đối với các phân tử MHC nhóm II của thể cho hoặc CD4; những đáp ứng do sự tăng sinh của nhóm thứ hai có thể bị ngăn chặn bằng kháng thể đơn dòng chống lại các phân tử MHC nhóm I của thể cho hoặc CD8. [/FONT]
[FONT="]<o></o>[FONT="]Một điều đã được thiết lập là các tế bào T của vật chủ có thể bị hoạt hóa rất mạnh nhờ các mô rắn thiếu các APC chuyên biệt. [/FONT]
Mọi người đọc bài mình dịch xem có hiểu được không nhé.
Hightlight vàng là tiếng Việt còn lủng củng. Chữ đỏ là chưa chắc về nghĩa.
Chương 7: Sự nhận biết kháng nguyên và hoạt hoá của lympho bào T
Giới thiệu
Qua những chương trước, chúng ta đã thấy rằng lympho T nhận biết kháng nguyên qua các thụ thể kháng nguyên của chúng (thụ thể tế bào T cho kháng nguyên- T-cell receptor for antigen– TCR). Giống như kháng thể, TCR đặc hiệu cho kháng nguyên và được phân chia theo dòng; ngoài ra, TCR còn có nhiều điểm tương đồng về cấu trúc với các phân tử kháng thể và thuộc cái gọi là siêu họ globulin miễn dịch (immunoglobulin superfamily) của các phân tử đã được nhắc tới ở chương 3. Tuy nhiên, các TCR không chỉ khác lớp với kháng thể mà chúng hoàn toàn riêng biệt và khác với kháng thể về nhiều mặt mà quan trọng nhất là sự khác biệt về đặc tính nhận biết kháng nguyên. TCR chỉ có thể nhận biết một dạng kháng nguyên duy nhất đó là mô hình một peptit liên kết với một phân tử self MHC/ MHC tự nó. Mô hình như vậy có yêu cầu đặc biệt về cấu trúc và hình dạng của vùng V của TCR.
Trong chương này, chúng ta sẽ bàn xem TCR được phát hiện như thế nào; TCR được mã hoá di truyền ra sao và các đặc tính sinh hoá của nó; sau khi TCR bị kích động thì lympho T được hoạt hoá thế nào; các dạng hoặc tiểu phần (subset) của TCR; và cuối cùng, những phân tử nào biểu hiện ra nhờ lympho T và tế bào trình diện kháng nguyên quan trọng cho sự hoạt hoá đúng đắn của các lympho T.
Thảo luận
7.1 Vì sao cấu trúc và đặc điểm di truyền của TCR được làm sáng tỏ muộn hơn rất nhiều so với kháng thể? Cái gì đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết những khó khăn trong trường hợp TCR?
Khó khăn trong việc làm sáng tỏ cấu trúc TCR là ở chỗ TCR không được tiết ra như kháng thể. Trở ngại chính khi đó là phải làm việc với các cấu trúc gắn trên màng tế bào, cùng với sự thiếu các quần thể lympho bào T đơn dòng với sự đặc hiệu biết trước. Tuy nhiên, phát hiện về sự sắp xếp lại của globulin miễn dịch cuối những năm 70 và những nghiên cứu kế tiếp nửa đầu những năm 80 đã cung cấp những kiến thức cần thiết về các gen mã hoá cho vùng V của kháng thể. Thêm vào đó, phương pháp luận về nhân các quần thể tế bào đơn dòng bắt nguồn từ lympho T in vitro đã góp phần cải thiện lớn và phục vụ đắc lực cho việc xác định đặc tính TCR biểu hiện từ những quần thể này.
7.2 Các loại quần thể tế bào T đơn dòng nào đã được sử dụng và làm thế nào để thu được chúng?
Hai loại quần thể tế bào T đơn dòng là phương tiện trong khám phá cấu trúc TCR là: thể lai T bào (T- cell hybridoma) và dòng lympho T phụ thuộc nhân tố thường (normal factor-dependent T-lymphocyte clones). Công nghệ lai đã được đề cập tới ở chương 3, khi áp dụng cho thể lai T bào, nó bao gồm hai bước: (1) dung hợp của lympho T thường của động vật bộ gặm nhấm đã được gây miễn dịch với u suy giảm HGPRT của lympho T (ví dụ như thymomas); (2) chọn lọc thể lai trên môi trường HAT. Các thể lai sinh trưởng và được tách dòng sau đó sẽ được sàng lọc lấy thể lai có khả năng nhận biết peptit bắt nguồn từ kháng nguyên dùng để gây miễn dịch, các peptid này nằm trong phức hợp cùng với các phân tử MHC của thể cho lympho T- vật chủ. Các dòng lympho T phụ thuộc nhân tố thường có thể sinh trưởng từ lympho T lách chuột hoặc lympho T máu ngoại vi của người, các lympho T này lấy từ vật chủ bị gây miễn dịch. Những lympho T “mồi” như thế phải được định kì “thúc ép” bằng các tế bào trình diện kháng nguyên bắt nguồn từ cùng một vật chủ và cùng pha với các kháng nguyên gây miễn dịch. Thêm vào đó, những lympho T này phải được cung cấp cytokine liên tục, cytokine là nhân tố tồn tại và phát triển của chúng. Có thể bổ sung các cytokine riêng rẽ hoặc tốt hơn là dạng “cocktail”, là dịch nổi của môi trường nuôi lympho T được kích thích bởi các nhân tố hoạt hoá tế bào T đa dòng (như phytohemagglutinin, PHA, và các nhân tố cảm ứng hiệu quả trong tiết cytokine).
Theo tôi, chúng ta đang kêu gọi giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Viêt, vậy nên nếu thuật ngữ nào đã có tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt đã thể hiện được hết ý bao hàm của một thuật ngữ tiếng nước ngoài thì nên sử dụng tiếng Việt. Đọc một bài dịch tiếng Việt mà bắt gặp quá nhiều thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài thì người đọc rất khó chịu.
Hi vọng mọi người cũng suy nghĩ giống tôi và cùng góp phần làm cho tiếng Việt giàu và đẹp hơn.
giữ nguyên receptor và clone thành clon
ví dụ other là khác thấy không cần thiết không cần dịch
target dịch là chung (phiên âm hán việt của đích, mục tiêu, bia), stem dịch là thủy (nguồn,nơi xuất phát, gốc ) do đó target cell là chung bào, stem cell là thủy bào
epitope epitop biểu vị
epitype epityp biểu loại
10.4 Có bảng phân loại receptor cytokine không ?
Có. Bảng phân loại receptor cytokine hiện tại phân thành năm nhóm biệt lập sau:
1. 'Receptor cytokine nhóm 1 hay receptor chất sinh hồng huyết tố.' "Dấu hiệu" đặc trưng của chúng là sự hiện diện của một hay nhiều hơn một bản sao của miền thay thế - N chứa hai cặp cysteine tồn dư bảo thủ cùng với trình tự thay thế màng sinh chất WSXWS, trong đó W là tryptophane, S là serine và N là aa thay thế bất kì. Tên gọi "receptor chất sinh hồng huyết tố" bắt nguồn từ sự thật receptor nhóm này dùng làm điểm bám cho chất sinh hồng huyết tố hay cytokine kích thích sinh hồng huyết tố (xem phần 10.3; M - CSF và tác nhân tế bào gốc là ngoại lệ ). Chúng cũng là receptor đối với IL-2, IL-4, IL-5, IL-6, IL-12, IL-13 và một số hormone không phải cytokine (hormone tăng trưởng và prolactin).
2.' Receptor cytokine nhóm 2 '. Tương tự recetor cytokine nhóm, receptor cytokine nhóm 2 có hai miền ngoại bào với các cysteine bảo thủ nhưng không có trình tự thay thế màng sinh chất WSXWS. Receptor cytokine nhóm 2 dùng làm điểm bám cho interferon anpha, beta, gamma, IL-10.
3. ' Receptor cytokine thuộc siêu họ Ig '. Receptor nhóm này chứa các miền tương tự Ig ngoại bào (xem chương 3).
4. ' TNF receptor '. Là receptor miền ngoại bào giàu cysteine; đã đề cập ở chương 7 và 8, có miền bào tương mà protein tín hiệu bám vào gọi chung là TRAF. Receptor nhóm này bám vào TNF, phối tử CD40, phối tử Fas, lymphotoxin, tác nhân tăng trưởng tế bào thần kinh.
5. ' Serpentine hoặc receptor với 7 miền xoắn anpha đối màng ', có cấu trúc khá đặc biệt: receptor quấn quanh màng tế bào 4/7 miền nên giống hình con rắn quấn cuộn, do đó gọi là serpentine (rắn quấn cuộn). Receptor này bám vào chemokine.
Hiển xem lại các thuật ngữ của phần này. Đã thống nhất là nếu có từ thuần Việt thì dùng từ đó. Cụ thể là receptor = thụ thể.
Chú ý nữa là khi dịch có chỗ nào không hiểu nên mang ra thảo luận để hiểu và dịch "trôi" hơn.
Em đã quen xài receptor như ăn thị chó không thể thiếu mắm tôm.
hemopoeisis dịch là chất sinh hồng huyết tố ?
không thể dịch là chu trình đc Hưng ạ. "Con đường" vẫn Ok đấy chứ (ví dụ metabolic pathways - các con đường chuyển hóa). Nếu không thích con đường thì chuyển sang "tuyến trình" (tuyến chứ không phải tiến) - lộ tuyến, quỹ đạo cũng được. Quỹ đạo nghe có vẻ hay vì quỹ đạo = lặp đi lặp lại, lúc nào cũng thế (mặc dù quỹ đạo chuyển hóa thì chưa thấy ai dịch)
Chu trình = cycle: có tính quay vòng.