Gửi bài dịch
Em xin lỗi mọi người đã ngâm bản dịch lâu quá, giờ làm xong rồi, nhưng vẫn còn 1 số từ em không biết dịch có chính xác không, nên để nguyên mẫu trong ngoặc, mong các anh chị xem và sửa giúp.

Em xin cảm ơn ạ.^^
À, còn bảng câu hỏi ôn và phần Matching, em không biết có cần dịch không nên chưa đưa vào, nếu cần thì em sẽ post lên.
MIỄN DỊCH ĐỐI VỚI VI KHUẨN.
Giới thiệu .
Từ lâu, miễn dịch đã được xem như sự phòng vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm do vi sinh vật gây ra. Mặc dù hiện nay định nghĩa về miễn dịch rộng lớn hơn (xem chương 1), chúng ta vẫn đánh giá cao rằng, những phản ứng nhằm vào việc loại thải các nhân tố vi khuẩn thật sự hay có khả năng gây nguy hiểm có lẽ là chức năng sinh lý quan trọng nhất của hệ thống miễn dịch. Miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch thu được thường bao gồm những đáp ứng hiệu quả chống lại vi sinh vật, như : vi khuẩn, virus, nấm, và ký sinh trùng. Đến nay, các vi sinh vật tiến hóa tránh khỏi đáp ứng miễn dịch đã sử dụng những sự thích ứng khác nhau cho phép chúng phát triển mạnh trong vật chủ có hệ miễn dịch tốt. Trong chương này, chúng ta thảo luận các cách hệ miễn dịch đáp ứng với vi sinh vật, và sẽ nêu bật vấn đề rằng chính những đáp ứng miễn dịch chống lại vsv có thể gây hại mô vật chủ. Hơn nữa, có nhiều trường hợp chính đáp ứng trầm trọng của hệ miễn dịch vật chủ với vi khuẩn lại gây hại cho vật chủ nhiều hơn cả vi khuẩn đó. Điều này sẽ được minh họa bằng nhiều ví dụ.
1 vấn đề khác sẽ nêu bật trong phần thảo luận, đó là 1 số hiện tượng, ban đầu được khám phá rằng có gắn liền với hệ miễn dịch của vi khuẩn, song thực tế lại rất quan trọng đối với sự miễn dịch nói chung. Chúng tôi sẽ minh họa vấn đề này, thảo luận những cơ chế phân tử như hoạt động của các siêu kháng nguyên, sự biến thể kháng nguyên, và sự biến đổi gene.
Trong những phần cuối chương, chúng tôi sẽ thảo luận khái niệm về các vaccines và sự tiêm chủng, phân tích các loại vaccine khác nhau, và nêu bật ngắn gọn 1 số xu hướng hiện nay trong việc phát triển vaccine.
Thảo luận.
14.1 Có chăng 1 phương cách phân loại vi sinh vật dựa vào mối quan hệ của chúng với hệ miễn dịch?
Câu trả lời là có. Vì các VSV rất đa dạng, nên việc phân loại chúng 1 cách chính xác là cực kỳ phức tạp, và vượt quá tầm kiến thức của miễn dịch học. Tuy nhiên, vẫn rất hữu ích khi thảo luận về miễn dịch kháng khuẩn – được chia thành những nhóm vi sinh vật sau :
(a) Vi khuẩn ngoại bào.
(b) Vi khuẩn nội bào.
(c) Nấm.
(d) Viruses.
(e) Ký sinh trùng.
Mỗi nhóm VSV đặc trưng theo cách riêng của chúng khi gây ra những đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và tiếp thu, đồng thời tránh khỏi những đáp ứng miễn dịch này.
14.2 Những đặc tính chính yếu nào của miễn dịch bẩm sinh khi chống lại vi khuẩn ngoại bào?
Vi khuẩn ngoại bào sinh sản bên ngoài tế bào vật chủ, và có thể gây hại cho vật chủ bằng cách gây ra phản ứng viêm sưng hoặc sản xuất độc tố. Hệ miễn dịch bẩm sinh của vật chủ thường đáp ứng đủ mạnh với sự xâm nhập của vi khuẩn để ngăn nhiễm bệnh. VK gram + có bề mặt peptidoglycan, còn VK gram – có bề mặt lipopolysaccharide (LPS). Những phân tử này hoạt hóa con đường bổ thể khác (xem chương 13). Một số VK còn mang những phân tử có nhóm mannose, do đó, có thể hoạt hóa con đường bổ thể lectin (protein ngưng kết tế bào) thông qua MBL (xem chương 13). Kết quả của việc hoạt hóa bổ thể này là sự opsonin hóa (opsonization) (tăng cường quá trình thực bào của các VK được bao phủ bởi những phân đoạn protein bổ trợ), tăng phản ứng sưng viêm cục bộ và sự phân giải trực tiếp VK nhờ MAC (chương 13). Nếu không có opsonin, các đại thực bào vẫn bảo vệ cơ thể chống lại VK ngoại bào, vì chúng có thể nhận diện và gắn kết với các VSV này thông qua những thụ thể mở đường (scavenger receptors) (xem chương 11). Thêm vào đó, các đại thực bào được hoạt hóa sẽ sản sinh những cytokines; cụ thể là TNF, IL-1, và chemokines, do đó, chúng sẽ xúc tiến sự bổ sung các bạch cầu kích thích phản ứng viêm (chương 10). Như đã trình bày chi tiết trong chương 10; 11; 12, tất cả các quá trình vừa được đề cập trên có thể làm tổn thương các mô cục bộ, và gây ra những tác động lên cơ thể, như : sốt và tổng hợp protein thời kỳ cấp tính.
14.3 Những đặc điểm chính yếu nào của miễn dịch tiếp thu chống lại vi khuẩn ngoại bào?
Khi nói về miễn dịch tiếp thu chống lại vi khuẩn ngoại bào, nên nhớ rằng hầu hết các VK này đều kết nang, và lớp vỏ của chúng chứa chủ yếu là polysaccharides. Vì thế, miễn dịch dịch thể - đặc biệt là những đáp ứng của tế bào B độc lập với tế bào T (chương 8)- đóng vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các VSV này. Những đáp ứng của kháng thể độc lập tế bào T đối với polysaccharides nang VK thường bao gồm chủ yếu là các kháng thể IgM với ái lực tương đối thấp, rất ít hoặc không có miễn dịch nhớ. Tuy nhiên, những đáp ứng với VK ngoại bào kết nang, vd: pneumococci và virus cúm (H. influenzae) túyp b, thì bao gồm kháng thể có các kiểu tương đồng xuôi, phần lớn là IgG2, và IgA. Gần đây, 1 số những kháng thể này được khám phá rằng có biểu hiện đột biến biến dưỡng trung tính, đặc biệt trên chuỗi nặng của vùng V, và có thể là đối tượng của 1 số chọn lọc trong những cơ quan dạng lympho ở ngoại vi (có lẽ là lách). Các đáp ứng kháng thể cũng có thể được tạo ra để chống lại độc tố VK. Vì cả nội và ngoại độc tố đều là protein, nên những đáp ứng kháng thể sinh ra sau đó đều là những đáp ứng độc lập tế bào T, có sự chuyển đổi rộng giữa các dạng, và ái lực thành thục.
Những kháng thể chống lại độc tố VK, đặc biệt là IgG ái lực cao (và IgA), có thể trung hòa các độc tố này 1 cách hữu hiệu. Kháng thể IgM, IgG1, và IgG3 có thể gắn kết với bổ thể; vì thế, chúng xúc tiến quá trình phân giải và quá trình thực bào VK mục tiêu, được bổ thể làm trung gian.
Các kháng nguyên protein của VK ngoại bào có thể được xử lý và trình diện lympho bào T- vốn làm trung gian cho những đáp ứng Th điển hình. Các tế bào đáp ứng chủ yếu là tế bào CD4+ Th, phân biệt với tế bào Th1 và/hoặc Th2 về sự sản xuất cytokine. Nếu VK gram -, thông thường đáp ứng là Th1, có lẽ bởi vì lớp lipopolysaccharide (LPS) của VK kích thích các đại thực bào sản sinh số lượng lớn cytokine IL-12 kích ứng Th1 (xem chương 10). Trong những trường hợp nghiêm trọng, việc siêu sản sinh TNF, IL-1, và LT bởi các đại thực bào được hoạt hóa bởi tế bào Th1 có thể gây ra chứng choáng do nhiễm trùng (xem chương 10& 11). Cũng vậy, 1 nét đặc trưng của những đáp ứng lympho bào T đối với VK ngoại bào là hiện tượng siêu kháng nguyên.
14.4 Siêu kháng nguyên là gì? Và làm thế nào hệ miễn dịch đáp ứng với chúng ?
Siêu kháng nguyên là các protein có khả năng kích thích các tế bào bạch huyết bằng cách gắn kết 1 nửa phân tử vẫn còn nằm trong vùng V của thụ thể kháng nguyên lympho bào, nhưng bên ngoài vị trí tương tác, với những kháng nguyên thông thường. Nhớ lại chương 4 và 7, những thụ thể kháng nguyên tương tác với kháng nguyên qua các thụ thể CD – độc nhất cho dòng lympho bào đang đề cập. Vì thế, mỗi dòng lympho bào T hoặc B đều có tính đặc hiệu kháng nguyên duy nhất. Các siêu kháng nguyên không phản ứng với những thụ thể CD, mà hay gắn kết với các trình tự đồng nhất trên vùng khung sườn FRs. Vd : 1 protein tụ cầu khuẩn, gọi là enterotoxin B (độc tố B trong ruột) (SEB, từ độc tố B, do tụ cầu khuẩn tiết ra trong ruột), gắn kết với 1 trình tự amino acid bảo tồn có trong nhiều vùng V của chuỗi β của thể thụ cảm (TCR) (Vβ3, 12, 14, 15, 17 và 20 ở người, Vβ7, 8.1, 8.2, 8.3, và 17 ở chuột). Trình tự amino acid này được mã hóa bởi 1 vùng khung sườn Vβ của TCR. Do kiểu kết nối rộng như vậy, nên độc tố B trong ruột và những độc tố trong ruột khác của tụ cầu khuẩn có thể hoạt hóa các lympho bào T khi ở nồng độ thấp khoảng 10-9 M. Người ta cũng thấy rằng chỉ cần 1 trong số 5 lympho bào T trong máu ngoại vi ở người hoặc máu lách chuột cũng có khả năng đáp ứng với 1 nội độc tố cụ thể. Một đáp ứng lympho bào T cực mạnh có thể gây siêu sản xuất nhiều cytokine khác nhau do các đại thực bào được hoạt hóa mạnh mẽ, đôi khi dẫn tới chứng choáng do nhiễm trùng và những biến chứng khác.
Một đặc điểm thú vị của SEB và các siêu kháng nguyên khác của lympho T VK là đặc tính kỳ lạ về sự tương tác giữa chúng với những phân tử MHC (phức hợp tương thích mô chủ yếu). Các siêu kháng nguyên không được những tế bào trình diện kháng nguyên xử lý, mà thường gắn kết trực tiếp với các phân tử MHC phân lớp II vốn được biểu hiện trên bề mặt APC. Hơn nữa, mỗi phân tử của siêu kháng nguyên tụ cầu khuẩn đều có 2 vị trí bắt cặp cho phân tử MHC phân lớp II, nên cho phép các siêu kháng nguyên liên kết chéo với phân tử MHC phân lớp II trên bề mặt APC. Lần lượt, những phân tử MHC được liên kết chéo sẽ gắn vào nhiều thụ thể kháng nguyên tế bào T (TCRs) để sau đó 2 thụ thể kế nhau trên cùng tế bào T có thể được gắn kết đồng thời bởi mỗi nhị trùng siêu kháng nguyên – MHC (superantigen–MHC dimer). Kết quả là gây ra sự hoạt hóa mạnh mẽ lympho bào T, thậm chí cả trong trường hợp vắng mặt các chất đồng kích thích.
14.5 Làm thế nào VK ngoại bào tránh được những đáp ứng miễn dịch?
Các VSV này có thể tránh miễn dịch bẩm sinh bằng cách kháng lại hoặc ức chế quá trình thực bào, và ngăn cản việc hoạt hóa bổ thể. Cả 2 mục tiêu này đều được hoàn tất nhờ sự kết nang. VK được bao bọc bởi những lớp vỏ polysaccharide mỏng, nên các thể thực bào gặp khó khăn khi phân hủy chúng. Thêm vào đó, chất cặn sialic acid chứa trong những nang này ức chế sự hoạt hóa bổ thể bằng con đường trao đổi luân phiên.
Sự thích nghi chủ yếu mà VK ngoại bào (cũng như các VK khác) sử dụng để tránh khỏi miễn dịch thu được là sự biến đổi kháng nguyên; nghĩa là 1 số kháng nguyên bề mặt của nhiều VK chính là đối tượng của sự thay đổi liên tục về cấu trúc, vì gene mã hóa cho các kháng nguyên này đã bị biến đổi. Sau đó là quá trình sửa đổi những gene cấu trúc bằng cách thêm vào chúng các phân đoạn đa dạng về chiều dài được vay mượn từ những trình tự cho (xem phần 5.13). Vd điển hình về sự biến đổi kháng nguyên là 1 protein bề mặt của VK, tên gọi pilin.
Protein này chứa trong pili, nghĩa là những phần phụ nhỏ mà tế bào VK sử dụng để bám dính vào tế bào nhân chuẩn. Ở gonococci, gene pilin trải qua sự biến đổi kéo dài nên thế hệ sau của 1 TB VK có thể biểu hiện đến 106 phân tử pilin khác biệt về cấu trúc và kháng nguyên. VK kết nhân (vd: Haemophilus influenzae) cũng có thể biến đổi lớp polysaccharides bên ngoài thông qua sự chuyển đổi gene trong trình tự mã hóa glycosidases.
14.6 Những đặc điểm chủ yếu nào của miễn dịch bẩm sinh chống lại VK nội bào?
Đáp ứng của miễn dịch bẩm sinh đáp ứng với VK nội bào (thích hợp sống bên trong tế bào, bao gồm những thể thực bào) bao gồm chủ yếu là quá trình thực bào và sự hoạt hóa TB NK. Theo hiểu biết về sinh học những VSV này, quá trình thực bào của chúng thường không hoàn thiện. Tuy nhiên, khi bị các đại thực bào nhận chìm, chúng có thể được hoạt hóa, và sản sinh IL-12-vốn hoạt hóa mạnh mẽ NK (xem chương 10). NK bám vào và tiêu hủy những VK này, đồng thời sản xuất IFN-γ, vốn có vai trò hoạt hóa các đại thực bào, xúc tiến quá trình phân giải và giết chết VK bởi ROI của chúng (xem chương 11). Lưu ý rằng, trong thực tế, chuột bị thêm chứng suy giảm miễn dịch trầm trọng, và mang những lympho bào không hoạt động, thì có thể L. monocytogenes do hoạt động phối hợp giữa các đại thực bào và tế bào NK. Lúc này, miễn dịch bẩm sinh không thể loại trừ VK nội bào, mà chỉ có thể làm ngưng sự lây lan nhiễm bệnh trong thời gian ngắn.
14.7 Miễn dịch bẩm sinh đáp ứng chống lại các VK nội bào như thế nào?
Vì VK nội bào không nằm trong phạm vi đối tượng của kháng thể, nên đáp ứng chủ yếu của miễn dịch bẩm sinh bảo vệ cơ thể chống lại các VK này là những đáp ứng miễn dịch tế bào. Cả Th và CTL đều tham gia vào cơ chế đáp ứng này. Những peptide VK tạo ra thể thực bào-sinh tan sẽ được trình diện trong các phân tử MHC phân lớp II, và hoạt hóa phần lớn những tế bào Th. Đáp ứng bảo vệ chủ yếu của tế bào Th chống VK ngoại bào bao gồm sự biệt hóa Th1 và hoạt hóa đại thực bào do Th1 làm trung gian. Như đã thảo luận trong chương 12, tế bào Th1 hoạt hóa đại thực bào bằng cách sản sinh cytokines, đặc biệt là IFN-γ, và liên hệ với các đại thực bào này thông qua CD40L, và CD40. Đại thực bào được hoạt hóa giết chết VK nội bào bằng cách điều hòa tăng (up-regulating) quá trình sản xuất những enzyme thuộc thể sinh tan của chúng và ROI. IFN-γ do chúng tạo ra cũng hoạt hóa sự chuyển đổi phân lớp thành những kháng thể tương đồng bám dính bổ thể và opsonin hóa đại thực bào (vd : IgG2a ở chuột). Con đường thông qua Th1 được điều hòa trực tiếp bởi IF-L-12, vốn do đại thực bào sản xuất, mà các đại thực bào này được hoạt hóa sau lần đầu tiên tiếp xúc với VK; ngoài ra, cũng có thể bao gồm con đường thông qua Th1 (trình bày sau). Những đáp ứng CTL chống lại VK nội bào, chủ yếu do các lympho bào T CD8+ làm trung gian, được kích thích khi các VK này, hoặc những thành phần protein của chúng, thoát khỏi thể thực bào sinh-tan, và các peptides VK được sinh ra trong cytosol.
14.8 Đáp ứng miễn dịch chống lại VK nội bào làm tổn thương mô vật chủ như thế nào?
Trong chương 11 và 12, chúng ta đã thảo luận 1 số hậu quả thương tổn của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và thích nghi chống lại VK nội bào. Nhớ lại rằng việc siêu hoạt hóa những thể thực bào (đặc biệt là các bạch cầu trung tính) có thể gây ra sự mưng mủ, và kích hoạt dài hạn các đại thực bào-ở chứng viêm sưng u hạt. Điều này thể hiện rất rõ nét trong quá trình xâm nhiễm vi khuẩn M.tuberculosis. Nói chung, mặc dù VK là nguyên nhân gây bệnh, sự tổn thương mô tại những cơ quan bị ảnh hưởng (đặc biệt là phổi) lại do các đại thực bào được kích hoạt tạo ra khối u làm trung gian. 1 VD khác của sự tổn thương mô do hệ miễn dịch vật chủ làm trung gian là việc nhiễm vi khuẩn M.leprae. VK này có thể gây đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ của tế bào Th2, vốn sản xuất IL-4 và kích thích miễn dịch bẩm sinh (chương 10). Trong trường hợp này, dạng lepromatous của lepra phát triển, thể hiện bằng những tổn thương rộng trên da. Tổn thương này phát triển do các tế bào Th2 được hoạt hóa đã ức chế sự kích hoạt những đại thực bào, vốn dẫn tới sự phát tán dịch bệnh. Ở bệnh nhân nhiễm dạng tuberculoid của lepra, con đường thông qua Th1 thể hiện rõ ràng hơn, và VK chứa trong các đại thực bào.
14.9 Làm cách nào VK nội bào tránh khỏi những cơ chế miễn dịch ?
Sự thích nghi chủ yếu cho phép VK nội bào tồn tại và phần lớn trốn thoát thành công khỏi các đáp ứng miễn dịch chính là sự sinh sản nội bào của chúng. Thêm vào đó, những VK nội bào khác nhau đều chủ động ức chế chức năng các đại thực bào. VD: VK M. tuberculosis có thể ngăn chặn sự tạo thành các thể thực bào sinh-tan, và L.monocytogenes có thể phá vỡ màng các thể này với sự trợ giúp của 1 protein chuyên biệt hóa gọi là hemolysin. M.leprae sản sinh phenolic glycolipid phá tan sự tạo thành ROI. Nhờ những cơ chế này, VK nội bào thường gây ra chứng nhiễm bệnh kinh niên, có thể không có triệu chứng, nhưng được tái hoạt hóa mà không cần nguyên nhân rõ ràng.
14.10 Những đặc điểm chính của sự miễn dịch với nấm.
Các bệnh nhiễm nấm bắt đầu lôi cuốn sự chú ý từ khi người ta khám phá rằng chúng là biến chứng chủ yếu của AIDS và những chứng suy giảm miễn dịch khác. Nhiễm bệnh do nấm có thể nhất thời, vd: không có triệu chứng ở cá thể có hệ miễn dịch khỏe, nhưng lại nghiêm trọng ở những cá thể bị suy giảm miễn dịch. Điều này giải thích 1 phần lý do tại sao chúng ta vẫn hiểu biết rất ít về miễn dịch kháng nấm, các cá thể biểu hiện dấu hiệu nhiễm nấm thường không thể phát triển những đáp ứng miễn dịch.
Ở cá thể khỏe mạnh, cả đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và tiếp thu đều cần thiết để bảo vệ sinh vật chống lại việc nấm bệnh lan rộng. Nhân tố chủ yếu tham gia trong miễn dịch bẩm sinh là các bạch cầu trung tính và đại thực bào. Nấm bị tiêu diệt sau khi bị các lysosomal enzymes hoặc ROI thực bào. Những bạch cầu trung tính cũng giải phóng lysosomal enzymes, và ROI; do đó, tiêu diệt các nấm tọa lạc trong khoảng không ngoại bào. Miễn dịch qua trung gian tế bào (CMI) là cơ chế chủ yếu của miễn dịch thích nghi chống lại nấm. Cả lympho bào CD4+ và CD8+ đều tham gia vào các đáp ứng kháng nấm; Những TB T giúp đỡ CD4+ có thể phân hóa thành TB Th1 hoặc Th2. Trong 1 số trường hợp (VD: nhiễm Candida albicans), đáp ứng Th1 bảo vệ, còn đáp ứng Th2 gây bất lợi cho vật chủ, có lẽ vì sự ức chế quá trình hoạt hóa đại thực bào sau đó. Nấm được biết là kích thích những đáp ứng kháng thể, nhưng vai trò bảo vệ sau này vẫn chưa được minh chứng.
14.11 Những đặc điểm chính của miễn dịch bẩm sinh chống virus.
Như đã đề cập trong chương 10 & 11, cơ chế chính yếu của miễn dịch bẩm sinh chống lại virus là sự ức chế quá trình xâm nhiễm của virus bằng interferon loại I (IFN-α và IFN-β) và sự giết chết các tế bào nhiễm virus qua trung gian tế bào NK. Như đã thảo luận, những interferon loại I gây ra tình trạng kháng virus bằng cách ức chế 1 số enzyme thiết yếu cho quá trình sinh sản của virus, và điều hòa tăng (up-regulate) những phân tử MHC phân lớp I; do đó, làm cho các tế bào nhiễm bệnh trở thành mục tiêu thích hợp hơn đối với CTL. Những TB NK dung giải TB nhiễm virus vốn làm điều hòa giảm các phân tử MHC phân lớp I, vì điều đó giải phóng trạng thái ức chế của chúng, thường được gây ra do sự tương tác giữa các thụ thể ức chế của chúng vói những phân tử trên.
14.12 Những đặc điểm chủ yếu của miễn dịch thích nghi chống lại virus?
Cơ chế chính của miễn dịch thích nghi đối với virus là những đáp ứng kháng thể và đáp ứng CTL. Kháng thể chỉ có hiệu quả chống virus trong những giai đoạn ngoại bào của đời sống các VSV này. Kháng thể có thể phong bế sự bám dính của 1 virus vào tế bào vật chủ hay sự xâm nhập của virus vào tế bào chủ. Kháng thể trung hòa có hiệu lực và khả năng bảo vệ nhất là IgG ái lực cao, và IgA. Phần lớn IgA được sản xuất trong gian nhầy của hệ miễn dịch (xem chương 13). Những kháng thể rất hiệu quả do 1 số vaccine kháng virus phổ biến được đưa vào qua đường miệng, tạo ra; vd: polio vaccine cũng thuộc loại này. Thêm vào đó, những kháng thể kháng virus có thể opsonin hóa các tiểu phần virus và hoạt hóa bổ thể. Việc phân giải trực tiếp 1 vài tiểu phần virus bởi MAC (đặc biệt với lipid trong lớp vỏ) cho thấy khả năng bảo vệ chống lại sự xâm nhiễm của virus. Đương nhiên, kháng thể không thể tác động tới những virus sinh sản bên trong tế bào chủ; do đó, miễn dịch dịch thể cũng không thể loại trừ sự xâm nhiễm do virus.
Lympho T, và đặc biệt CTL, là công cụ quan trọng cho phép vật chủ giết chết những tế bào nhiễm virus, và do đó loại trừ sự xâm nhiễm. CTL nhận diện các peptide virus, và chủ yếu được hoạt hóa do hiện tượng mẫn cảm chéo được mô tả trong chương 12. (Nhắc lại, điều này có nghĩa rằng nếu 1 virus nhiễm vào APC không chuyên (nonprofessional) không có chất đồng kích thích, thì TB bị nhiễm sẽ được thực bào hóa bởi 1 APC chuyên nghiệp hiện diện trong những peptide viurs, và biểu hiện thành những chất đồng kích thích có khả năng kích hoạt tế bào T). Như đã phác thảo trong chương 12, CTL CD8+ được hoạt hóa sẽ phát triển dòng vô tính mạnh mẽ (undergo massive clonal expansion) trong suốt quá trình xâm nhiễm, để 1 phân đoạn thiết yếu mang trên các lympho T CD8+ đang vận hành được chuyên biệt với kháng thể virus. CTL phân giải TB nhiễm virus với sự trợ giúp của những tiểu thể của chúng. Thêm vào đó, như đã đề cập trong chương 12, granzyme B chứa trong những tiểu thể cytotoxic hoạt hóa các nuclease TB (thông qua sự hoạt hóa sự kích hoạt cơ quan đáp ứng lại kích thích caspases - effector caspases), và nhờ đó phá hủy bộ gene TB nhiễm virus.
14.13 Đáp ứng miễn dịch chống virus có thể làm hại mô vật chủ không?
Có. Điều này chủ yếu đặc trưng cho những virus không thuộc tế bào (noncytopathic), vd : virus không tiêu hủy tế bào bị nhiễm. 1 minh chứng kinh điển của sự tổn thương mô bởi đáp ứng miễn dịch là tổn thương gây ra do virus làm viêm màng não đệm thâm nhiễm lympho bào (LCMV). Trên chuột, CTL chuyên biệt cho những peptide LCMV có thể dung giải tế bào màng não-tủy, và gây bệnh viêm màng não. Nghịch lý rằng, về phương diện lâm sàng, chuột thiếu tế bào T, khi bị nhiễm LCMV lại là những vật mang bệnh khỏe mạnh, trong khi chuột bình thường, khi nhiễm LCMV lại phát bệnh, do đáp ứng của tế bào T chống virus. Ở người, virus viêm gan siêu vi B gây bệnh tiềm ẩn trên những cá thể thiếu hụt miễn dịch, trong khi trên những cá thể khỏe mạnh, nó có thể khởi phát đáp ứng CTL mạnh mẽ gây tổn thương gan. Virus viêm gan siêu vi B cũng có thể phát động các đáp ứng miễn dịch kháng thể dẫn tới sự hình thành những phức hợp miễn dịch, và có thể gây ra các bệnh về vi mạch trong cơ thể (tổn thương những mạch máu nhỏ), do tính không hòa tan và lắng cặn ở những mạch máu này.
14.14 Làm thế nào virus tránh khỏi các đáp ứng miễn dịch?
Virus là những SV rất cổ xưa, và, hiểu theo nghĩa này, chúng đã tiến hóa để trở nên rất “mánh khóe” trong việc thích ứng với vật chủ, và tránh khỏi các đáp ứng miễn dịch. Những phương cách đa dạng mà virus sử dụng để thoát khỏi các phản ứng miễn dịch có thể được nhóm như sau :
* Sự biến đổi kháng nguyên. Virus liên tục thay đổi kháng nguyên của chúng bằng cách đột biến hoặc tái sắp xếp các gene. Hiện tượng này giải thích cho việc hình thành số lượng cực lớn các dòng virus, và làm cho sự tạo miễn dịch bảo vệ cơ thể chống lại virus trở nên rất khó khăn.
* Ức chế quá trình xử lý và trình diện kháng nguyên (Hình 14-1). VD: các adenovirus mã hóa 1 protein gọi là E1A, vốn có khả năng ngăn chặn trực tiếp sự phiên mã của các gene MHC phân lớp I. Virus gây bệnh rộp da không đau (Herpes simplex virus) mã hóa 1 protein tên gọi ICP-47 bám dính vào TAP (xem chương 6), và cản trở sự vận chuyển chủ động những peptide cytosolic vào mạng lưới nội chất. Vài adenovirus còn mã hóa 1 protein tên gọi E3 bám vào các phân tử MHC phân lớp I trong mạng lưới nội chất, và không cho chúng thoát khỏi mạng lưới khi những virus mang các peptide này. Những protein được mã hóa bởi cytomegaloviruses (CMV) người và chuột đều có các thuộc tính tương đồng – cản trở sự biểu hiện các phân tử MHC phân lớp I khi mang chúng, và protein Nef được mã hóa bởi virus gây suy giảm miễn dịch trên người (HIV) còn đồng hóa những phân tử trên.
Hình 14-1. Virus ức chế sự trình diện kháng nguyên. Hình này minh họa 1 số ví dụ về việc virus cản trở MHC phân lớp I trình diện kháng nguyên. Xem chú thích để rõ chi tiết. (Abbas, K., A.H. Lichtman, and J.S. Pober, Cellular and Molecular Immunology, fourth edition, W.B. Saunders, 2000, p.355 (their figure in Box 15-3)).
CMV : Cytomegalovirus; CTL : lympho bào T trong tế bào; EBV: Epstein-Barr virus; ER: mạng lưới nội chất; HSV: virus gây bệnh rộp da không đau; TAP : chất mang liên kết với quá trình xử lý kháng nguyên.
* Sản sinh những phân tử ức chế miễn dịch. Poxvirus sản xuất những phân tử có cấu trúc tương tự thụ thể của nhiều cytokines (gồm IFN-γ, TNF, và IL-1), nhưng được ẩn giấu (secreted), và do đó, hoạt động như những chất ức chế hòa tan, cạnh tranh với sự tương tác giữa cytokine và thụ thể cytokine. Tương tự, CMV sinh ra 1 phân tử tương đồng với MHC phân lớp I, và có thể hoạt động như 1 chất cạnh tranh với phân tử MHC thực thụ khi peptide bám dính. EBV tạo ra 1 protein tương đồng với IL-10 (nhớ lại trong chương 10 : cytokine này là 1 chất ức chế tiềm năng trong việc hoạt hóa đại thực bào và sự miễn dịch do TB làm trung gian).
* Phá hủy những TB chuyên hoạt động miễn dịch. VD điển hình là HIV (xem chương 18)