Tự học Tiếng Anh chuyên ngành sinh học thông qua dịch tài liệu.

#23.24
Other areas of biology are also continually changing under the influence of evolution. For example, as Charles Darwin predicted in The Origin of Species, classification has become more than simply the grouping of organisms into species, genera, families, and so on based on how physically similar they are. Classification now aims to group species according to their evolutionary history. Thus two species that diverged recently from the same ancestor should be in the same genus, whereas species that shared a more distant common ancestor might be in different genera or higher taxonomic levels.
Các lĩnh vực khác của sinh học cũng không ngừng biến đổi dưới tác động của tiến hóa. Chẳng hạn, như Charles Darwin dự đoán trong cuốn Nguồn gốc của loài thì hệ thống phân loại phát triển thêm lên từ chỗ chỉ đơn giản nhóm các sinh vật thành loài, chi, họ... dựa vào sự giống nhau về mặt hình thể của chúng. Hệ thống phân loại ngày nay hướng đến nhóm các loài theo lịch sử tiến hóa của chúng. Bởi vậy hai loài mới phân nhánh tiến hóa từ cùng một tổ tiên thì thuộc cùng một chi, trong khi đó các loài có chung một tổ tiên nhưng xa hơn thì có thể thuộc các chi khác nhau hay thuộc các mức phân loại cao hơn.
 
#23.25
Until the 1980s, evolutionary history, or phylogeny, of organisms could only be inferred from anatomical similarities. Since that time, however, it has been possible to determine phylogeny from comparisons of molecules. Often this molecular phylogeny agrees with the phylogeny based on anatomy. For example, about 99 percent of the sequence of bases in the deoxyribonucleic acid (DNA) of chimpanzees and humans is identical. This finding confirms the conclusion from anatomy that chimpanzees and humans evolved from the same ancestor only a few million years ago. Such agreement between anatomical and molecular phylogeny would not be expected if each species were a totally different creation unrelated to other species, but it makes sense in light of evolution. It is one of many examples of the famous saying by the geneticist Theodosius Dobzhansky (1900–1975): “Nothing in biology makes sense except in light of evolution.” SEE ALSO Adaptation; Buffon, Count (Georges-Louis Leclerc); Convergent Evolution; Darwin, Charles; Endangered Species; Evolution, Evidence for; Extinction; Hardy-Weinberg Equilibrium; Lamarck, Jean- Baptiste; Natural Selection; Speciation

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem mục lục của topic
 
#23.25
Until the 1980s, evolutionary history, or phylogeny, of organisms could only be inferred from anatomical similarities. Since that time, however, it has been possible to determine phylogeny from comparisons of molecules. Often this molecular phylogeny agrees with the phylogeny based on anatomy. For example, about 99 percent of the sequence of bases in the deoxyribonucleic acid (DNA) of chimpanzees and humans is identical. This finding confirms the conclusion from anatomy that chimpanzees and humans evolved from the same ancestor only a few million years ago. Such agreement between anatomical and molecular phylogeny would not be expected if each species were a totally different creation unrelated to other species, but it makes sense in light of evolution. It is one of many examples of the famous saying by the geneticist Theodosius Dobzhansky (1900–1975): “Nothing in biology makes sense except in light of evolution.” SEE ALSO Adaptation; Buffon, Count (Georges-Louis Leclerc); Convergent Evolution; Darwin, Charles; Endangered Species; Evolution, Evidence for; Extinction; Hardy-Weinberg Equilibrium; Lamarck, Jean- Baptiste; Natural Selection; Speciation

Cho đến những năm 80 của thế kỷ hai mươi, lịch sử tiến hóa hay sự phát sinh chủng loài của các sinh vật chỉ có thể dựa vào sự tương đồng về cấu trúc giải phẫu. Tuy nhiên, từ thời gian đó trở đi, người ta đã có thể xác định sự phát sinh chủng loài thông qua so sánh các phân tử. Thông thường sự phát sinh chủng loài dựa trên cấp độ phân tử phù hợp với sự phát sinh chủng loài dựa vào cấu trúc giải phẫu. Ví dụ, có khoảng 99% trình tự base nitơ của tinh tinh và con người giống nhau. Kết quả này một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của kết luận dựa trên cấp độ cấu trúc giải phẫu là tinh tinh và con người tiến hóa từ cùng một tổ tiên chỉ mấy triệu năm trước đây. Sự phù hợp giữa phát sinh chủng loài dựa trên cấp độ cấu trúc giải phẫu với cấp độ phân tử sẽ không như dự đoán nếu mỗi loài là một sinh vật hoàn toàn khác biệt không liên quan đến nhau, nhưng điều này có thể sáng tỏ dưới ánh sáng của quá trình tiến hóa. Nó chỉ là một trong nhiều ví dụ về câu nói nổi tiếng của Theodosius Dobzhansky (1900 - 1975): "Trong sinh học không có cái gì là sáng tỏ trừ khi xem xét nó dưới ánh sáng của quá trình tiến hóa.". Xem thêm: Sự thích nghi; Buffon, Count (Georges-Louis Leclerc); Tiến hóa hội tụ; Darwin, Charles; Loài bị đe dọa tuyệt chủng; Lamarck, Jean Baptiste; Chọn lọc tự nhiên, Sự hình thành loài.
http://www.sinhhocvietnam.com/forum/showthread.php?p=42962#post42962
 
#24. ADN tái tổ hợp

#24.1
Recombinant DNA

Recombinant deoxyribonucleic acid (DNA) technology allows the creation and manipulation of DNA sequences that come from different sources, even different species. The development of recombinant DNA technology in the 1970s was hailed as the most exciting invention since the development of transistors some twenty to thirty years earlier. The transistor changed people’s lives forever by creating the microelectronics revolution and enabling the development of portable radios, tape and compact disc players, cellular phones, and computers, all leading to fabulous wealth in the developed world. Recombinant DNA technology is likely to also have profound effects on society, including better health through improved disease diagnosis, much better understanding of human gene variation, improved drug and pharmaceutical production, vastly more sensitive and specific crime scene forensics, and production of genetically modified organisms that significantly improve yields and nutritional value of crops while decreasing reliance on pesticides and artificial fertilizers. Recombinant DNA and the transgenic technology that it spawned have already entered everyday lives to a degree, as evidenced by the completion of a draft of the human genome sequence, criminal trials relying on DNA evidence, and controversy over the use of genetically modified corn and other organisms.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem mục lục của topic
 
Bác Thọ tâm huyết với thread này quá nhỉ, cố lên bác ơi!
Cảm ơn thầy giáo đã khuyến khích, cái gì bắt đầu cũng khó nên học trò đành phải cố gắng hơn một chút vậy. Thầy giáo có thời gian thì nhớ "ghé" vô đây sửa giúp những chỗ còn củ chuối..., để học trò có cơ hội tiến bộ và biết đâu sau khi được thầy giáo góp ý, chỉnh sửa thì những bài dịch này cũng là một tư liệu có thể tin cậy cho các bạn trẻ yêu thích Sinh học có thêm một tư liệu để học tiếng Anh chuyên ngành.(y)
 
anh tho oi co gang len.em rat nguong mo ve nhung bai dich cua anh day,nhung bai dich nay rat bo ich cho nhung nguoi moi bap be tu hoc tieng anh chuyen nganh nhu em.hii:mrgreen:
 
anh tho oi co gang len.em rat nguong mo ve nhung bai dich cua anh day,nhung bai dich nay rat bo ich cho nhung nguoi moi bap be tu hoc tieng anh chuyen nganh nhu em.hii:mrgreen:

Nếu làm được điều gì đó như wssv nhận xét thì có nghĩa là mình đang đi đúng con đường mình đã chọn và đây thực sự là công việc mình yêu thích. Cũng hy vọng lúc bạn có hứng thú và quyết tâm hãy bắt đầu thực hành đọc những tài liệu tiếng Anh và dịch tại đây. Chắc các đàn anh trong diễn đàn sẽ sẵn sàng giúp chúng ta tiến bộ khi chúng ta cần giúp đỡ về chuyên môn. Tôi cũng hy vọng sẽ giúp ích đôi chút cho bạn và những người như bạn trong khả năng hạn hẹp của mình khi các bạn bắt tay vào thực hành tại chủ đề này.
PS: wssv chú ý đọc quy định tham gia diễn đàn và viết tiếng Việt có dấu nhé.
 
#24.1
Recombinant DNA

Recombinant deoxyribonucleic acid (DNA) technology allows the creation and manipulation of DNA sequences that come from different sources, even different species. The development of recombinant DNA technology in the 1970s was hailed as the most exciting invention since the development of transistors some twenty to thirty years earlier. The transistor changed people’s lives forever by creating the microelectronics revolution and enabling the development of portable radios, tape and compact disc players, cellular phones, and computers, all leading to fabulous wealth in the developed world. Recombinant DNA technology is likely to also have profound effects on society, including better health through improved disease diagnosis, much better understanding of human gene variation, improved drug and pharmaceutical production, vastly more sensitive and specific crime scene forensics, and production of genetically modified organisms that significantly improve yields and nutritional value of crops while decreasing reliance on pesticides and artificial fertilizers. Recombinant DNA and the transgenic technology that it spawned have already entered everyday lives to a degree, as evidenced by the completion of a draft of the human genome sequence, criminal trials relying on DNA evidence, and controversy over the use of genetically modified corn and other organisms.
ADN tái tổ hợp
Công nghệ axit deoxyribonucleic (ADN) tái tổ hợp cho phép tạo ra và tiến hành các thao tác biến đổi trình tự ADN từ các nguồn khác nhau, thậm chí là các loài khác nhau. Sự phát triển của công nghệ ADN tái tổ hợp trong thập niên 70 của thế kỷ hai mươi được chào đón như một phát minh gây náo động nhất kể từ khi phát triển các linh kiện bán dẫn khoảng vài chục năm trước đó. Linh kiện bán dẫn đã thay đổi cuộc sống người dân hơn bao giờ hết với việc tạo ra cuộc cách mạng về vi mạch điện tử và cho phép phát triển các máy thu sóng cầm tay, các máy nghe nhạc dùng băng và đĩa nén, các điện thoại cầm tay, máy tính, và đã tạo nên sự thịnh vượng tuyệt vời ở các nước phát triển. Công nghệ ADN tái tổ hợp dường như cũng có những hiệu ứng sâu sắc đối với xã hội, bao gồm dịch vụ y tế tốt hơn thông qua việc chẩn đoán bệnh tật được cải thiện, thông qua việc hiểu biết nhiều hơn về sự đa dạng của bộ gen người, cải thiện trong công nghiệp dược phẩm và sản xuất thuốc, sự gia tăng vượt bậc về độ nhạy và độ đặc hiệu của khoa học pháp y trong phân tích hiện trường phạm tội và việc sản xuất các sinh vật biến đổi gen để làm tăng đáng kể sản lượng và giá trị dinh dưỡng của mùa màng cũng như giảm sự phụ thuộc vào thuốc diệt côn trùng và phân bón hóa học. Công nghệ ADN tái tổ hợp cùng với con đẻ của nó là công nghệ chuyển gen đã xâm nhập vào đời sống hàng ngày như chúng ta đã được biết, đó là sự hoàn thành bản thảo về trình tự bộ gen người, các vụ xử án dựa trên bằng chứng về ADN và sự tranh luận về việc sử dụng ngô và các sinh vật biến đổi gen khác.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem Trang chủ của topic
 
#24.2
Recombinant DNA technology has had to create its place instead of entering an existing market. As a result, recombinant DNA technology has probably consumed more finances than it has yet generated, although this discounts the long-term value of increasing knowledge. Where recombinant DNA technology has made the biggest economic impact is in the pharmaceutical industry, allowing the production of single human proteins for therapeutic use or to generate specific antibodies. Harvesting human insulin created in bacterial cells is far easier than isolating it from pig or human cadaver pituitary glands, for instance. The financial base for recombinant DNA technology should continue to improve as genetically modified organisms are becoming widely used in agriculture; more than half the U.S. soybean crop now consists of a strain genetically modified to reduce the amount of herbicides necessary to bring in a good yield.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem Trang chủ của topic
 
#24.2
Recombinant DNA technology has had to create its place instead of entering an existing market. As a result, recombinant DNA technology has probably consumed more finances than it has yet generated, although this discounts the long-term value of increasing knowledge. Where recombinant DNA technology has made the biggest economic impact is in the pharmaceutical industry, allowing the production of single human proteins for therapeutic use or to generate specific antibodies. Harvesting human insulin created in bacterial cells is far easier than isolating it from pig or human cadaver pituitary glands, for instance. The financial base for recombinant DNA technology should continue to improve as genetically modified organisms are becoming widely used in agriculture; more than half the U.S. soybean crop now consists of a strain genetically modified to reduce the amount of herbicides necessary to bring in a good yield.

Công nghệ ADN tái tổ hợp đã phải tạo chỗ đứng cho nó thay vì xâm nhập ngay vào một thị trường sẵn có. Kết quả là công nghệ ADN tái tổ hợp có lẽ đã tiêu tốn nhiều kinh phí hơn số mà nó tạo ra, mặc dù điều này có ý nghĩa lâu dài là mở rộng sự hiểu biết. Công nghiệp dược phẩm là nơi mà công nghệ ADN tái tổ hợp đã tạo ra hiệu quả kinh tế to lớn nhất, cho phép sản xuất các protein đơn lẻ của người dùng trong điều trị hay tạo ra các kháng thể đặc hiệu. Thu hoạch insulin người được tạo ra trong các tế bào vi khuẩn dễ hơn nhiều so với việc tách chiết nó, chẳng hạn, từ lợn hay từ tuyến yên của xác người tình nguyện hiến thân cho khoa học sau khi chết. Giá trị kinh tế của công nghệ ADN tái tổ hợp sẽ tiếp tục gia tăng khi các sinh vật chuyển gen đang được sử dụng ngày càng rộng rãi trong nông nghiệp; hơn một nửa mùa màng đậu tương của Hoa Kỳ ngày nay có chủng biến đổi gen để làm giảm lượng thuốc diệt cỏ cần thiết cho vụ mùa bội thu.


Để tiện theo dõi, mời các bạn xem mục lục của topic
 
#24.3
Gene Cloning
A clone is a collection of organisms that are genetically identical, and a recombinant DNA clone is a collection of genetically identical organisms (most often bacteria) that each carry a specific foreign (from another source) DNA molecule. “Clone” also refers to the foreign DNA itself after being placed in the target organism. Thus, scientists would speak of the “cloned DNA.” Typically, a specific DNA molecule is inserted into a vector DNA molecule that can carry foreign DNA, and the resulting recombinant DNA is introduced into a host organism (often the common bacterium Escherichia coli or the yeast Saccharomyces cerevisiae). Large numbers of genetically identical host organisms, each carrying the same specific foreign DNA molecule, can be produced, allowing the DNA or its protein product to be produced in large quantities.
 
#24.3
Gene Cloning
A clone is a collection of organisms that are genetically identical, and a recombinant DNA clone is a collection of genetically identical organisms (most often bacteria) that each carry a specific foreign (from another source) DNA molecule. “Clone” also refers to the foreign DNA itself after being placed in the target organism. Thus, scientists would speak of the “cloned DNA.” Typically, a specific DNA molecule is inserted into a vector DNA molecule that can carry foreign DNA, and the resulting recombinant DNA is introduced into a host organism (often the common bacterium Escherichia coli or the yeast Saccharomyces cerevisiae). Large numbers of genetically identical host organisms, each carrying the same specific foreign DNA molecule, can be produced, allowing the DNA or its protein product to be produced in large quantities.
Tạo dòng gen
Dòng là một tập hợp các sinh vật giống hệt nhau về mặt di truyền và một dòng ADN tái tổ hợp là một tập hợp các sinh vật (thường gặp nhất là các vi khuẩn) giống hệt nhau về di truyền mà mỗi sinh vật đó có mang phân tử ADN ngoại lai (từ một nguồn khác) đặc hiệu. "Dòng" còn dùng để chỉ chính bản thân ADN ngoại lai sau khi được đặt vào sinh vật đích. Bởi thế, các nhà khoa học có thể nói "ADN dòng hóa". Điển hình là, một phân tử ADN đặc hiệu được chèn vào một phân tử ADN trung gian có thể mang ADN ngoại lai và ADN tái tổ hợp tạo thành sẽ được đưa vào sinh vật chủ (thường là vi khuẩn Escherichia coli thông thường hay nấm men Saccharomyces cerevisiae). Số lượng lớn các sinh vật chủ giống hệt nhau về mặt di truyền có thể được tạo ra, mà mỗi cá thể đều mang phân tử ADN ngoại lai. Điều này cho phép ADN và các sản phẩm protein của chúng có thể được tổng hợp với số lượng lớn.
 
#24.4
The process of DNA cloning has two components. One is the use of restriction enzymes in vitro to cut DNA into a unique set of fragments. Restriction enzymes are endonucleases that bacteria naturally use to defend against DNA viruses by cleaving DNA at specific sites. The enzyme EcoRI, for example, from E. coli, cleaves every site with the six-nucleotide sequence of GAATTC, found on average every 4,100 nucleotides in DNA. (A companion methylase enzyme modifies the bacterium’s own GAATTC sites so they are not targets of EcoRI.) Researchers have isolated many different restriction enzymes from bacterial species. The enzymes differ in the sequences of the target sites that they cut, in the locations of the cleavage sites, and by whether modified target sites are cleaved (in some cases modification is required for cleavage). The collection of restriction enzymes with these different properties provides an invaluable toolbox for cutting and joining DNA molecules from different sources.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem mục lục của topic
 
#24.4
The process of DNA cloning has two components. One is the use of restriction enzymes in vitro to cut DNA into a unique set of fragments. Restriction enzymes are endonucleases that bacteria naturally use to defend against DNA viruses by cleaving DNA at specific sites. The enzyme EcoRI, for example, from E. coli, cleaves every site with the six-nucleotide sequence of GAATTC, found on average every 4,100 nucleotides in DNA. (A companion methylase enzyme modifies the bacterium’s own GAATTC sites so they are not targets of EcoRI.) Researchers have isolated many different restriction enzymes from bacterial species. The enzymes differ in the sequences of the target sites that they cut, in the locations of the cleavage sites, and by whether modified target sites are cleaved (in some cases modification is required for cleavage). The collection of restriction enzymes with these different properties provides an invaluable toolbox for cutting and joining DNA molecules from different sources.
Quá trình tạo dòng ADN gồm hai công đoạn. Một công đoạn sử dụng các enzym giới hạn trong ống nghiệm để cắt ADN thành một tập hợp duy nhất của các đoạn ADN. Các enzym giới hạn là những endonuclease mà trong tự nhiên vi khuẩn dùng để phòng vệ đối với các vi rút ADN bằng cách phân cắt ADN tại những vị trí đặc hiệu. Ví dụ, Enzym EcoRI ở E.coli phân cắt mọi vị trí có trình tự 6 nucleotid là GAATTC, là trình tự được tìm thấy trong khoảng trung bình 4100 nucleotid của ADN. (Một enzym methyl hóa cơ hữu có trong vi khuẩn biến đổi những vùng trình tự GAATTC của chính nó nên chúng không bị tác động bởi EcoRI). Các nhà khoa học đã tách chiết được nhiều enzym giới hạn khác nhau từ các loài vi khuẩn. Các enzym này khác nhau ở trình tự đích mà chúng tiến hành phân cắt, ở vị trí cắt và vùng đích được biến đổi có bị cắt hay không (trong một số trường hợp sự biến đổi là cần thiết cho sự phân cắt). Tập hợp các enzym giới hạn với những đặc điểm khác nhau này tạo nên một bộ công cụ vô giá để tiến hành cắt, ghép các phân tử ADN từ các nguồn khác nhau.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem mục lục của topic
 
#24.5
The other component of DNA cloning technology is the use of vectors to ensure that the host organism carries and replicates the foreign DNA. Most often bacteria are used as the host organism, because of their fast growth and the ready availability of techniques for manipulating and growing bacteria in small- and large-scale cultures. Vectors are DNA molecules that contain an origin of replication that functions in the host organism (to allow the vector to be copied), and a gene that confers some survival advantage on host cells that contain the vector DNA. Typically the vector carries a gene that confers resistance to a particular drug, such as an antibiotic.
 
Cảm ơn thầy giáo đã khuyến khích, cái gì bắt đầu cũng khó nên học trò đành phải cố gắng hơn một chút vậy. Thầy giáo có thời gian thì nhớ "ghé" vô đây sửa giúp những chỗ còn củ chuối..., để học trò có cơ hội tiến bộ và biết đâu sau khi được thầy giáo góp ý, chỉnh sửa thì những bài dịch này cũng là một tư liệu có thể tin cậy cho các bạn trẻ yêu thích Sinh học có thêm một tư liệu để học tiếng Anh chuyên ngành.(y)

Bạn dịch chuẩn quá rồi, thực sự mình không biết góp ý vào chỗ nào nữa!
 
#24.5
The other component of DNA cloning technology is the use of vectors to ensure that the host organism carries and replicates the foreign DNA. Most often bacteria are used as the host organism, because of their fast growth and the ready availability of techniques for manipulating and growing bacteria in small- and large-scale cultures. Vectors are DNA molecules that contain an origin of replication that functions in the host organism (to allow the vector to be copied), and a gene that confers some survival advantage on host cells that contain the vector DNA. Typically the vector carries a gene that confers resistance to a particular drug, such as an antibiotic.
Công đoạn khác của công nghệ ADN tái tổ hợp là việc sử dụng các phân tử trung gian để đảm bảo cho vật chủ sẽ mang và sao chép ADN ngoại lai. Hầu hết các vi khuẩn được dùng làm vật chủ do sự phát triển nhanh chóng của chúng và sự sẵn sàng của các kỹ thuật để tiến hành biến đổi và nuôi cấy chúng trên quy mô nhỏ hay lớn. Các phân tử trung gian là các phân tử ADN chứa trình tự khởi đầu sao mã để hoạt động trong các vật chủ (cho phép phân tử trung gian được sao chép) và một gen để tạo nên ưu thế sống sót nào đó cho tế bào chủ có chứa ADN trung gian. Điển hình là phân tử trung gian mang một gen tạo nên sự đề kháng đối với một thuốc cụ thể, chẳng hạn như thuốc kháng sinh.
 
#24.6
The original vectors used were based on naturally occurring small, circular DNA molecules distinct from the bacterial chromosome, called plasmids. The most widely used vector of the late 1970s to early 1980s was the plasmid pBR322, which contained an origin of replication, a gene that confers resistance to the antibiotic ampicillin, and a second gene that confers resistance to the antibiotic tetracycline. Each of these antibiotic resistance genes contains the recognition sequence for a restriction endonuclease. Opening the vector at one of those sites by restriction digestion in vitro and ligating (splicing) the foreign DNA into that site destroys the resistance encoded by that gene but leaves the other resistance factor intact. Plasmid DNA can then be put back into bacterial host cells (by transfection) where it can replicate up to several hundred copies per bacterium. The bacteria are then grown in media containing one or the other antibiotic. This facilitates selection and identification of bacteria receiving the ligation product. The cloned DNA then replicates along with the rest of the plasmid DNA to which it is joined.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem Trang chủ của topic
 
#24.6
The original vectors used were based on naturally occurring small, circular DNA molecules distinct from the bacterial chromosome, called plasmids. The most widely used vector of the late 1970s to early 1980s was the plasmid pBR322, which contained an origin of replication, a gene that confers resistance to the antibiotic ampicillin, and a second gene that confers resistance to the antibiotic tetracycline. Each of these antibiotic resistance genes contains the recognition sequence for a restriction endonuclease. Opening the vector at one of those sites by restriction digestion in vitro and ligating (splicing) the foreign DNA into that site destroys the resistance encoded by that gene but leaves the other resistance factor intact. Plasmid DNA can then be put back into bacterial host cells (by transfection) where it can replicate up to several hundred copies per bacterium. The bacteria are then grown in media containing one or the other antibiotic. This facilitates selection and identification of bacteria receiving the ligation product. The cloned DNA then replicates along with the rest of the plasmid DNA to which it is joined.


Các phân tử trung gian được sử dụng đầu tiên là các phân tử ADN trong tự nhiên, kích thước nhỏ, hình vòng tách biệt với nhiễm sắc thể của vi khuẩn gọi là các plasmid. Phân tử trung gian được sử dụng rộng rãi nhất từ cuối thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 80 của thế kỷ hai mươi là plasmid pBR322, đó là phân tử trung gian chứa một trình tự khởi đầu sao mã, một gen tạo nên tính kháng lại kháng sinh ampicilin và một gen thứ hai tạo nên tính kháng lại kháng sinh tetracyclin. Mỗi gen kháng kháng sinh này đều chứa trình tự được nhận biết bởi endonuclease giới hạn. Việc mở phân tử trung gian tại một trong các vùng đó thông qua sự phân cắt trong ống nghiệm được xúc tác bởi enzym giới hạn rồi nối (ghép) ADN ngoại lai vào vùng đó sẽ phá hủy sự đề kháng với kháng sinh được mã hóa bởi gen đó nhưng yếu tố đề kháng với kháng sinh còn lại không bị ảnh hưởng. ADN của plasmid sau đó có thể được đưa ngược trở lại các tế bào chủ của vi khuẩn (thông qua chuyển nạp), tại đó nó có thể sao chép thành hàng trăm bản sao trong mỗi con vi khuẩn. Các vi khuẩn sau đó được nuôi trong các môi trường có chứa một trong hai kháng sinh. Điều này thúc đẩy sự chọn lọc và đồng nhất của những vi khuẩn nhận được sản phẩm ghép nối. ADN dòng hóa sau đó sao chép cùng với phần còn lại của ADN plasmid mà nó gắn vào.

Để tiện theo dõi, mời các bạn xem Trang chủ của topic
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,550
Members
56,918
Latest member
sv368net
Back
Top