Dịch các từ chuyên ngành (Hematopoiesis, pluripotent, ...)

Bạn thử tham khảo cách dịch của các thuật ngữ ở đường link sau:
stoichiometric
transition state
induced-fit: Bạn nên trích dẫn toàn bộ câu văn hoặc đoạn văn sẽ dễ hiểu hơn.
câu cú nó thế này nè anh . "later on, the induced-fit theory was proposed according to which the substrate induces a change in the enzyme conformation after binding , that may orient the catalytic group in a way prone for the subsequent reaction " :)
 
induced fit: tương thích cấu trúc do cảm ứng.
Cảm ơn bác Lương gợi ý dùng từ "tương thích cấu trúc" để dịch từ "fit" ở đây mà theo ý em là rất khoa học và hợp lý để nói đến quá trình cơ chất gắn vào vùng hoạt động của enzym. Tuy nhiên, em thấy lăn tăn ở chữ induced. Theo em, chữ này nói đến việc sau khi cơ chất tương ứng gắn vào vùng hoạt động của enzym thì gây cảm ứng làm biến đổi cấu hình không gian của enzym. Vậy nên hiểu cụm từ trên là "tương thích cấu trúc gây cảm ứng" hay "tương thích cấu trúc do cảm ứng" ạ?
 
Cảm ơn bác Lương gợi ý dùng từ "tương thích cấu trúc" để dịch từ "fit" ở đây mà theo ý em là rất khoa học và hợp lý để nói đến quá trình cơ chất gắn vào vùng hoạt động của enzym. Tuy nhiên, em thấy lăn tăn ở chữ induced. Theo em, chữ này nói đến việc sau khi cơ chất tương ứng gắn vào vùng hoạt động của enzym thì gây cảm ứng làm biến đổi cấu hình không gian của enzym. Vậy nên hiểu cụm từ trên là "tương thích cấu trúc gây cảm ứng" hay "tương thích cấu trúc do cảm ứng" ạ?
cái này theo em nghĩ là cảm ứng do tương thích về mặt cấu trúc.Tức là tương thích cấu trúc gây cảm ức như anh đã nói:cool:
 
Các bạn phải đọc lý thuyết: từ lock and key sang induced fit.
Lock and key ví enzyme với cơ chất như ổ khóa (enzyme) và chìa khóa (cơ chất)
Nhưng sau này người ta nhận ra trạng thái ổ khóa chìa khóa không phải là trạng thái native của các chất này mà là khi chúng đã tiếp xúc với nhau. Do đó người ta dùng chữ induced fit, ý nói enzyme và cơ chất chỉ tương thích cấu trúc một phần, nhưng khi tiếp xúc đúng chỗ thì sẽ gây cảm ứng khiến enzyme biến đổi cấu hình để tương thích hoàn toàn.
Nói cách khác: induced fit tương thích/khớp về cấu trúc/hình dạng do cảm ứng của cơ chân lên enzyme.
648px-Induced_fit_diagram_pt.svg.png

Trường hợp này không thể dịch là tương thích cấu trúc gây cảm ứng vì nó không phải là kết quả cuối cùng. Kết quả là 100% fit, do cảm ứng gây nên.
Nếu luận từ ngữ pháp tiếng Anh thì induced fit: khớp nhau bởi cảm ứng, vì chữ induced là tính từ bị động bổ trợ cho chữ fit.
 
Các bạn phải đọc lý thuyết: từ lock and key sang induced fit.
Lock and key ví enzyme với cơ chất như ổ khóa (enzyme) và chìa khóa (cơ chất)
Nhưng sau này người ta nhận ra trạng thái ổ khóa chìa khóa không phải là trạng thái native của các chất này mà là khi chúng đã tiếp xúc với nhau. Do đó người ta dùng chữ induced fit, ý nói enzyme và cơ chất chỉ tương thích cấu trúc một phần, nhưng khi tiếp xúc đúng chỗ thì sẽ gây cảm ứng khiến enzyme biến đổi cấu hình để tương thích hoàn toàn.
Nói cách khác: induced fit tương thích/khớp về cấu trúc/hình dạng do cảm ứng của cơ chân lên enzyme.
648px-Induced_fit_diagram_pt.svg.png

Trường hợp này không thể dịch là tương thích cấu trúc gây cảm ứng vì nó không phải là kết quả cuối cùng. Kết quả là 100% fit, do cảm ứng gây nên.
Nếu luận từ ngữ pháp tiếng Anh thì induced fit: khớp nhau bởi cảm ứng, vì chữ induced là tính từ bị động bổ trợ cho chữ fit.
Trong cuốn bản dịch cuốn A-level Biology (WD Phillips, TJ Chilton) của NXBGD thì cụm từ này được dịch là "phù hợp do cảm ứng".

Coi như góp thêm một ý kiến để mọi người tham khảo :)
 
Trong cuốn bản dịch cuốn A-level Biology (WD Phillips, TJ Chilton) của NXBGD thì cụm từ này được dịch là "phù hợp do cảm ứng".

Coi như góp thêm một ý kiến để mọi người tham khảo :)
Phần bác Lương giải thích ở trên nghe rất hợp lý, đúng là dịch thành "tương thích cấu trúc gây cảm ứng" có vẻ không ổn.
Nếu phân tích cấu trúc ngữ pháp theo gợi ý của bác Lương, có thể dịch thành "tương thích cấu trúc được cảm ứng".
 
Các bạn phải đọc lý thuyết: từ lock and key sang induced fit.
Lock and key ví enzyme với cơ chất như ổ khóa (enzyme) và chìa khóa (cơ chất)
Nhưng sau này người ta nhận ra trạng thái ổ khóa chìa khóa không phải là trạng thái native của các chất này mà là khi chúng đã tiếp xúc với nhau. Do đó người ta dùng chữ induced fit, ý nói enzyme và cơ chất chỉ tương thích cấu trúc một phần, nhưng khi tiếp xúc đúng chỗ thì sẽ gây cảm ứng khiến enzyme biến đổi cấu hình để tương thích hoàn toàn.
Nói cách khác: induced fit tương thích/khớp về cấu trúc/hình dạng do cảm ứng của cơ chân lên enzyme.
648px-Induced_fit_diagram_pt.svg.png

Trường hợp này không thể dịch là tương thích cấu trúc gây cảm ứng vì nó không phải là kết quả cuối cùng. Kết quả là 100% fit, do cảm ứng gây nên.
Nếu luận từ ngữ pháp tiếng Anh thì induced fit: khớp nhau bởi cảm ứng, vì chữ induced là tính từ bị động bổ trợ cho chữ fit.
òh hen! đúng òi! theo ngữ pháp thì nó ở thể participle sẽ bổ nghĩa cho fit theo hướng bị động. Vậy dịch thành tương thích cấu trúc do cảm ứng thì chín xoác hơn! hihi hay quá!
 
"Many, but not all, enzymes require small molecules to performas catalysts. These
molecules are termed coenzymes or cofactors. The term coenzyme is used to re-
fer to small molecular weight organic molecules that associate reversibly to the
enzyme and are not part of its structure; coenzymes bound to enzymes actually
take part in the reaction and, therefore, are sometime called cosubstrates, since they
are stoichiometric in nature (Kula 2002). Coenzymes often function as intermedi-
ate carriers of electrons (i.e. NAD+ or FAD+ in dehydrogenases), specific atoms
(i.e. coenzyme Q in H atom transfer) or functional groups (i.e. coenzyme A in acyl
group transfer; pyridoxal phosphate in amino group transfer; biotin in CO2 transfer)
that are transferred in the reaction. The term cofactor is commonly used to refer to
metal ions that also bind reversibly to enzymes but in general are not chemically al-
tered during the reaction; cofactors usually bind strongly to the enzyme structure so
that they are not dissociated from the holoenzyme during the reaction (i.e. Ca++ in
α-amylase; Co++ or Mg++ in glucose isomerase; Fe+++ in nitrile hydratase)."

dịch là : " Nhiều nhưng không phải tất cả, các enzyme đòi hỏi các phân tử nhỏ để tham gia như các chất xúc tác. Những phân tử này được định danh là các Coenzyme hoặc các Cofactor. Thuật ngữ Coenzyme được dùng để chỉ các phân tử hữu cơ có trọng lượng phân tử nhỏ liên kết ngịch với enzyme và không tách rời cấu trúc của nó; Những Coenzyme liên kết với các enzyme thực chất là tham gia vào các quá trình phản ứng và vì vậy, chúng thỉnh thoảng được gọi là những Cosubstrate bởi vì chúng có tỉ lệ theo tự nhiên. Những Coenzyme thường hoạt động như các chất mang trung gian, vận chuyển electron (như NAD+ or FAD+ trong dehydrogenases), những nguyên tử đặc biệt ( như coenzyme Q trong vận chuyển nguyên tử H), hoặc những nhóm hoạt động (như coenzyme A trong vận chuyển nhóm acyl ; pyridoxal phosphate trong vận chuyển nhóm amino; biotin trong vận chuyển CO2) chúng được vận chuyển trong các quá trình phản ứng. Thuật ngữ Cofactor thường được sử dụng để chỉ những ion kim loại cũng liên kết nghịch với những enzyme nhưng nhìn chung chúng không bị biến đổi về mặt hóa học trong suốt quá trình phản ứng; những Cofactor thường liên kết chặt với cấu trúc enzyme để chúng không bị tách rời khỏi holoenzyme trong suốt quá trình phản ứng ( như Ca++ trong
α-amylase; Co++ or Mg++ trong glucose isomerase; Fe+++ trong nitrile hydratase)

Em dịch như thế có đúng không ạ? xin các anh sửa giúp em! và các thuật ngữ Cofactor, Cosubstrate dịch ra tiếng Việt thế nào nhỉ?:???:
 
Coenzyme vẫn được dịch là coenzyme, nếu không thích bạn có thể dịch là 'chất đồng xúc tác'
called cosubstrates, since they are stoichiometric in nature: câu này bạn phải dịch là:
những coenzyme gắn liền với enzyme thì đôi khi còn được gọi là đồng cơ chất (tức cosubtrate), vì cơ chất và coenzyme (loại) này có tỉ lệ trong phản ứng cân bằng là xác định (tức khi bạn viết phương trình cân bằng ra thì tỉ lệ giữa cơ chất/đồng cơ chất sẽ không đổi trong phản ứng đó).
Chữ in nature có nghĩa là về mặt tính chất chứ không phải trong tự nhiên. Lỗi hay gặp nên tránh
Stoichiometric có nghĩa là tỉ lệ giữa chất tham gia/sản phẩm, tức là con số đứng trước các chất tham gia/sản phẩm khi bạn đã cân bằng xong phương trình.
Haizz, English shừ is sừ sô difficult tử! (bắt chước bọn Nhật Hàn). :banbo:
 
Mình cơ bản đồng ý với phần dịch của bạn Phúc, chỉ có một số thay đổi nhỏ trong phần in đậm sau đây:
Many, but not all, enzymes require small molecules to performas catalysts. These molecules are termed coenzymes or cofactors. The term coenzyme is used to refer to small molecular weight organic molecules that associate reversibly to the enzyme and are not part of its structure; coenzymes bound to enzymes actually take part in the reaction and, therefore, are sometime called cosubstrates, since they are stoichiometric in nature (Kula 2002). Coenzymes often function as intermediate carriers of electrons (i.e. NAD+ or FAD+ in dehydrogenases), specific atoms (i.e. coenzyme Q in H atom transfer) or functional groups (i.e. coenzyme A in acyl group transfer; pyridoxal phosphate in amino group transfer; biotin in CO2 transfer) that are transferred in the reaction. The term cofactor is commonly used to refer to metal ions that also bind reversibly to enzymes but in general are not chemically altered during the reaction; cofactors usually bind strongly to the enzyme structure so that they are not dissociated from the holoenzyme during the reaction (i.e. Ca++ in α-amylase; Co++ or Mg++ in glucose isomerase; Fe+++ in nitrile hydratase).
Nhiều nhưng không phải tất cả, các enzyme đòi hỏi các phân tử nhỏ để tham gia như các chất xúc tác. Những phân tử này được định danh là các Coenzyme hoặc các Cofactor. Thuật ngữ Coenzyme được dùng để chỉ các phân tử hữu cơ có trọng lượng phân tử nhỏ liên kết ngịch với enzyme và không tách rời cấu trúc của nó; Những Coenzyme liên kết với các enzyme thực chất là tham gia vào các quá trình phản ứng và vì vậy, chúng thỉnh thoảng được gọi là những Cosubstrate bởi vì chúng có tỉ lệ theo tự nhiên. Những Coenzyme thường hoạt động như các chất mang trung gian, vận chuyển electron (như NAD+ or FAD+ trong dehydrogenases), những nguyên tử đặc biệt ( như coenzyme Q trong vận chuyển nguyên tử H), hoặc những nhóm hoạt động (như coenzyme A trong vận chuyển nhóm acyl ; pyridoxal phosphate trong vận chuyển nhóm amino; biotin trong vận chuyển CO2) chúng được vận chuyển trong các quá trình phản ứng. Thuật ngữ Cofactor thường được sử dụng để chỉ những ion kim loại cũng liên kết nghịch với những enzyme nhưng nhìn chung chúng không bị biến đổi về mặt hóa học trong suốt quá trình phản ứng; những Cofactor thường liên kết chặt với cấu trúc enzyme để chúng không bị tách rời khỏi holoenzyme trong suốt quá trình phản ứng ( như Ca++ trong α-amylase; Co++ or Mg++ trong glucose isomerase; Fe+++ trong nitrile hydratase)
Nhiều nhưng không phải tất cả, các enzyme cần đến các phân tử nhỏ để thực hiện vai trò của chất xúc tác. Những phân tử này có tên gọi là các Coenzyme hoặc các Cofactor. Thuật ngữ Coenzyme được dùng để chỉ các phân tử hữu cơ có trọng lượng phân tử nhỏ liên kết thuận nghịch với enzyme và không phải là bộ phận cấu thành enzym; Những Coenzyme gắn vào enzyme tham gia thực sự vào phản ứng và vì vậy, chúng thỉnh thoảng được gọi là những đồng cơ chấtthực chất chúng tham gia với tỉ lệ nhất định. Những Coenzyme thường hoạt động như các chất trung gian vận chuyển điện tử (như NAD+ or FAD+ trong dehydrogenases), những nguyên tử đặc hiệu (như coenzyme Q trong vận chuyển nguyên tử H), hoặc những nhóm chức năng (như coenzyme A trong vận chuyển nhóm acyl ; pyridoxal phosphate trong vận chuyển nhóm amino; biotin trong vận chuyển CO2), đây là những yếu tố được vận chuyển trong phản ứng. Thuật ngữ Cofactor thường được sử dụng để chỉ những ion kim loại cũng liên kết thuận nghịch với những enzyme nhưng nhìn chung chúng không bị biến đổi về mặt hóa học trong suốt quá trình phản ứng; những Cofactor thường liên kết chặt với cấu trúc enzyme để chúng không bị tách rời khỏi holoenzyme trong suốt quá trình phản ứng (như Ca++ trong α-amylase; Co++ or Mg++ trong glucose isomerase; Fe+++ trong nitrile hydratase)
 
According to these requirements, enzymes can be classified in three groups:
(i) those that do not require of an additional molecule to perform biocatalysis,
(ii) those that require cofactors that remain unaltered and tightly bound to the en-
zyme performing in a catalytic fashion, and
(iii) those requiring coenzymes that are chemically modified and dissociated during
catalysis, performing in a stoichiometric fashion.
The requirement of cofactors or coenzymes to perform biocatalysis has profound
technological implications
Enzyme activity, this is, the capacity of an enzyme to catalyze a chemical reac-
tion, is strictly dependent on its molecular structure. Enzyme activity relies upon
the existence of a proper structure of the active site, which is composed by a re-
duced number of amino acid residues close in the three-dimensional structure of
the protein but usually far apart in the primary structure. Therefore, any agent that
promotes protein unfolding will move apart the residues constituting the active site
and will then reduce or destroy its biological activity. Adverse conditions of tem-
perature, pH or solvent and the presence of chaotropic substances, heavy metals and
chelating agents can produce this loss of function by distorting the proper active
site configuration. Even though a very small portion of the enzyme molecule par-
ticipates in catalysis, the remaining of the molecule is by no means irrelevant to its
performance. Crucial properties, like enzyme stability, are very much dependent on
the enzyme three-dimensional structure. Enzyme stability appears to be determined
by undefined irreversible processes governed by local unfolding in certain labile re-
gions denoted as weak spots. These regions prone to unfolding are the determinants
of enzyme stability and are usually located in or close to the surface of the protein
molecule, which explains why the surface structure of the enzyme is so important
for its catalytic stability. These regions have been the target of site-specific mutations for increasing stability. Though extensively studied, rational
engineering of the enzyme molecule for increased stability has been a very com-
plex task. In most cases, these weak spots are not easy to identify so it is not clear
to what region of the protein molecule should one be focused on and, even though
properly selected, it is not clear what is the right type of mutation to introduce
.Despite the impressive advances in the field and the exis-
tence of some experimentally based rules , rational improve-
ment of the stability is still far from being well established. In fact, the less rational
approaches of directed evolution using error-prone PCR and gene shuffling have
been more successful in obtaining more stable mutant enzymes. Both strategies can combine using a set of rationally designed mutants that
can then be subjected to gene shuffling .

dịch là:

Theo những đòi hỏi trên, những enzyme có thể được phân loại thành ba nhóm sau :
(i) Những enzyme này không yêu cầu một phân tử thêm vào với vai trò là xúc tác sinh học
(ii) Những enzyme này yêu cầu những cofactor vẫn không bị biến đổi và liên kết chặt với enzyme tham gia vào sự cấu thành xúc tác
(iii) Những enzmye này yêu cầu có những coenzyme bị biến đổi về mặt hóa học và tách rời khỏi enzyme trong suốt quá trình xúc tác, tham gia với một tỉ lệ cấu thành

Những đòi hỏi về coenzyme và cofactor trong việc tham gia xúc tác sinh học thì có nhiều mối liên hệ tiềm ẩn về mặt kỹ thuật công nghệ cần được nghiên cứu sâu rộng.

Hoạt tính của enzyme là năng lực của một enzyme để xúc tác vào các phản ứng hóa học, điều đó phụ thuộc một cách chặt chẽ vào cấu trúc phân tử của các enzyme đó. Hoạt tính của enzyme trông cậy vào sự tồn tại của một cấu trúc riêng về vùng hoạt động, vùng này được cấu thành từ một lượng nhỏ đơn vị acid amin gần sát với cấu trúc ba chiều của protein nhưng thường khá xa với cấu trúc bậc 1. Vì vậy, một số chất hóa học khiến cho protein không cuộc gập được sẽ di chuyển xa các đơn vị thiết lập vùng hoạt động, và sau đó sẽ giảm hoặc hủy diệt hoạt tính sinh học của enzyme. Những điều kiện bất lợi về nhiệt độ, pH hoặc dung môi và sự hiện diên của những vật chất hỗn loạn, kim loại nặng, và các chất chelating có thể gây nên sự hao hụt các đặc tính bởi việc làm biến dạng cấu hình không gian vùng hoạt động của enzyme. Thậm chỉ, mặc dù một phần nhỏ của phân tử enzyme tham gia xúc tác thì vai trò của những phần còn lại của phân tử này không có ý nghĩa gì đáng nói. Những đặc điểm chủ yếu như sự bền vững của enzyme lại phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc ba chiều của nó. Sự hiện diện của sự bền vững này được quyết định bởi những quá trình không thuận nghịch bất định, những quá trình này được chi phối bởi vị trí không cuộn gập ở những vùng có đôi chút không bền vững, được gọi là weak spots (những điểm yếu). Những vùng này thiên về sự không cuộn gập là những yếu tố quyết định cho sự bền vững của enzyme, và chúng thường nằm gần hoặc nằm trên những bề mặt phân tử protein điều đó cũng giải thích tại sao cấu trúc bề mặt của enzyme lại khá là quan trọng đối với sự bền vững trong việc xúc tác của enzyme như thế. Những vùng này đã là mục tiêu của những đột biến vùng đặc biệt đối với việc làm tăng sự bền bỉ của enzyme. Mặc dù đã mở rộng nghiên cứu nhưng kỹ thuật hợp lý về phân tử enzyme ( hay dịch là cấu tạo hợp lí của pt protein nhỉ?) trong việc làm tăng độ bền là một nhiệm vụ hết sức phực tạp. Trong hầu hết mọi trường hợp, những weak spot này thì không dễ để truy tìm, vì nó không thể hiện rõ vùng nào của phân tử protein mà cần tập trung, và mặc dù đã lựa chọn một cách đúng đắn nhưng vẫn không rõ ràng đặc trưng nào của đột biến để giới thiệu :botay: (dịch xong hông hiểu lun).
Mặc dù các lợi ích đầy ý nghĩa trong ngành và sự tồn tại những nguyên tắc cơ bản thực nghiệm, những cải thiện hợp lý về độ bền của enzyme vẫn còn khá xa từ lúc mới thiết lập. Thực ra, những sự tiếp cận kếm hợp lý của sự tiến hóa định hướng trong việc sử dụng xu hướng lỗi PCR và xáo trộn gen đã mang lại nhiều thành công trong việc thu nhận những enzyme đột biến bền vững.
Hai chiến lược này có thể kết hợp vào việc sự dụng các sản phẩm enzyme đột biến được thiết kế một cách hợp lý tùy thuộc vào việc xáo trộn gen.

Xin mấy anh sửa dùng em. Thanks
 
chelating agents: chất tạo phức, chất bắt ion kim loại
Enzyme stability appears to be determined by undefined irreversible processes governed by local unfolding in certain labile regions denoted as weak spots.
Độ bền của enzyme dường như được quyết định bởi những quá trình thuân nghịch chưa xác định rõ. Những quá trình này bị chi phối bởi sự mở xoắn cục bộ ở những vùng kém bền nhất định, được gán cho là những điểm yếu.
Though extensively studied, rational engineering of the enzyme molecule for increased stability has been a very complex task. In most cases, these weak spots are not easy to identify so it is not clear to what region of the protein molecule should one be focused on and, even though properly selected, it is not clear what is the right type of mutation to introduce.
Mặc dù đã được nghiên cứu rất kỹ, việc cải tiến một cách có hệ thống phân tử enzyme để tăng độ bền cho chúng vẫn là một công việc rất phức tạp. Trong phần lớn trường hợp, không dễ dàng xát định những điểm yếu, vì thế người ta không biết nên tập trung vào vùng nào của phân tử protein, và kể cả khi đã chọn đúng, người ta cũng không rõ loại đột biến nào đưa vào đó thì hợp lý.
 
(iii) those requiring coenzymes that are chemically modified and dissociated during catalysis, performing in a stoichiometric fashion.
Despite the impressive advances in the field and the existence of some experimentally based rules , rational improvement of the stability is still far from being well established. In fact, the less rational approaches of directed evolution using error-prone PCR and gene shuffling have been more successful in obtaining more stable mutant enzymes. Both strategies can combine using a set of rationally designed mutants that can then be subjected to gene shuffling.
anh có thể xem lại phần này hông. Em thấy dịch hông hay cho lắm
thanks:please:
 
(iii) those requiring coenzymes that are chemically modified and dissociated during catalysis, performing in a stoichiometric fashion.
Câu này bạn cho full context mới dịch được
Despite the impressive advances in the field and the existence of some experimentally based rules , rational improvement of the stability is still far from being well established. In fact, the less rational approaches of directed evolution using error-prone PCR and gene shuffling have been more successful in obtaining more stable mutant enzymes. Both strategies can combine using a set of rationally designed mutants that can then be subjected to gene shuffling.
anh có thể xem lại phần này hông. Em thấy dịch hông hay cho lắm
thanks:please:
Mặc dù đã có những tiến bộ đầy ấn tượng trong lĩnh vực này và tồn tại một số nguyên lý có cơ sở thực nghiệm, việc cải tiến độ bền của enzyme một cách có hệ thống vẫn còn lâu mới có thể đạt được. Trong thực tế, những phương pháp ít có tính hệ thống hơn như 'tiến hóa nhân tạo' (từ này rất mới nên tôi tạm dịch vậy) sử dụng PCR 'dễ mắc lỗi' hoặc 'xáo trình tự gene' lại thành công hơn trong việc thu nhận được enzyme đột biến có độ bền cao hơn.
Câu cuối chưa make sense lắm trừ phi bạn cho thêm ngữ cảnh. Trường hợp dịch chuối cũng được nhưng nói chung cả người dịch lẫn người đọc sẽ không hiểu nó nói gì :botay:
 
Nếu bạn đọc lên thấy không hiểu, thì khoan hãy dịch mà quay lại đọc toàn bộ đoạn văn rồi thử tìm cách diễn giải nó theo ý của mình xem có khớp với văn cảnh và nội dung đoạn văn không rồi dịch.
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,917
Latest member
sv368net
Back
Top