nehigoha
Senior Member
Những bài viết sau đây được trích và dịch từ Chemical Composition of Everyday Products của John Toedt, Darrel Koza, & Kathleen Van Cleef-Toedt. Greenwood Press xuất bản sách năm 2005.
THUỐC UỐN TÓC (Permanent waving of hair)
Thực ra, từ thời cổ đại Ai Cập và La Mã con người đã mong ước cải thiện mái tóc của mình. Niềm mong ước đó mãi đến thế kỉ 20 mới được dệt thành. Đầu thập niên 1990, quy trình làm xoăn tóc đòi hỏi sử dụng máy móc trong vòng 9 tiếng và thay đổi các loại dung dịch khác nhau. Thập niên 1920 đánh dấu sự phát minh của hóa chất làm xoăn tóc. Đến thập niên 1930, các nhà khoa học chứng minh rằng khi thay đổi nhiệt độ và tính kiềm của tóc, disulfide bonds của tóc bị phá vỡ bởi sulfides hoặc mercaptans. Thập niên 1940 ghi chú sự ra đời của ứng dụng thioglytic acid cho việc uốn tóc tại nhiệt độ thường. Đây chính là nền tảng của công nghệ uốn tóc hiện đại.
Thành phần chính của tóc là protein keratin. Keratin bao gồm nhiều chuỗi amino acids liên kết với nhau bằng hydrogen bonds, salt bridges, disuldife linkages, và hydrophobic interactions. Trong quá trình uốn và duỗi tóc, hydrogen bond giữa các chuỗi bị đứt đọan bởi phân tử nước, salt bridges bị phá vỡ bằng cách thay đổi pH, và disulfide linkages thì đặc biệt hơn: phá vỡ liên kết cũ rồi hồi phục lại theo ý muốn. Bởi vì keratin chứa nhiều cysteine residue và disulfide bonds bền vững, thay đổi vị trí các disulfide bonds có thể thay đổi hình dạng của từng sợi tóc.
Đầu tiên, tóc được thoa chất dưỡng chứa mercaptan reducing agent, ví dụ như thioglycolic acid HS-CH2COOH, để bẻ liên kết disulfide. Hydrogen từ gốc sulfur của thioglycolic acid được chuyển qua liên kết disulfide và giải phóng free cysteine residues của tóc. Chất dưỡng cũng có chứa chất làm mềm biểu bì tóc và một buffer có tính kiềm nhẹ cho thioglycolic acid họat động. Khi này, tóc bạn sẽ có mùi trứng ung! Sau đó thioglycolic acid được trung hòa bởi mild oxidizing agent, ví dụ như là dung dịch oxy già loãng H2O2. Đồng thời, free cysteine residues liên kết disulfide với nhau. Vì tóc hiện đang được kẹp xoắn, liên kết disulfide mới củng cố vị trí mới này của các sợi tóc.
Vì quá trình oxi hóa thường không hoàn toàn, những số liên kết disulfide không được phục hồi khiến tóc bị yếu đi. Một số chất khử khác có thể được sử dụng như ethanolamine sulfite, cysteamine HCl, ammonium thiolactate, monoethanolamine thiolactate. Và các chất oxi hóa trong uốn tóc cũng có thể chứa ammonium hydroxide, perborates, ammonium persulfate, sodium/potassium bromate.
THUỐC UỐN TÓC (Permanent waving of hair)
Thực ra, từ thời cổ đại Ai Cập và La Mã con người đã mong ước cải thiện mái tóc của mình. Niềm mong ước đó mãi đến thế kỉ 20 mới được dệt thành. Đầu thập niên 1990, quy trình làm xoăn tóc đòi hỏi sử dụng máy móc trong vòng 9 tiếng và thay đổi các loại dung dịch khác nhau. Thập niên 1920 đánh dấu sự phát minh của hóa chất làm xoăn tóc. Đến thập niên 1930, các nhà khoa học chứng minh rằng khi thay đổi nhiệt độ và tính kiềm của tóc, disulfide bonds của tóc bị phá vỡ bởi sulfides hoặc mercaptans. Thập niên 1940 ghi chú sự ra đời của ứng dụng thioglytic acid cho việc uốn tóc tại nhiệt độ thường. Đây chính là nền tảng của công nghệ uốn tóc hiện đại.
Thành phần chính của tóc là protein keratin. Keratin bao gồm nhiều chuỗi amino acids liên kết với nhau bằng hydrogen bonds, salt bridges, disuldife linkages, và hydrophobic interactions. Trong quá trình uốn và duỗi tóc, hydrogen bond giữa các chuỗi bị đứt đọan bởi phân tử nước, salt bridges bị phá vỡ bằng cách thay đổi pH, và disulfide linkages thì đặc biệt hơn: phá vỡ liên kết cũ rồi hồi phục lại theo ý muốn. Bởi vì keratin chứa nhiều cysteine residue và disulfide bonds bền vững, thay đổi vị trí các disulfide bonds có thể thay đổi hình dạng của từng sợi tóc.
Đầu tiên, tóc được thoa chất dưỡng chứa mercaptan reducing agent, ví dụ như thioglycolic acid HS-CH2COOH, để bẻ liên kết disulfide. Hydrogen từ gốc sulfur của thioglycolic acid được chuyển qua liên kết disulfide và giải phóng free cysteine residues của tóc. Chất dưỡng cũng có chứa chất làm mềm biểu bì tóc và một buffer có tính kiềm nhẹ cho thioglycolic acid họat động. Khi này, tóc bạn sẽ có mùi trứng ung! Sau đó thioglycolic acid được trung hòa bởi mild oxidizing agent, ví dụ như là dung dịch oxy già loãng H2O2. Đồng thời, free cysteine residues liên kết disulfide với nhau. Vì tóc hiện đang được kẹp xoắn, liên kết disulfide mới củng cố vị trí mới này của các sợi tóc.
Vì quá trình oxi hóa thường không hoàn toàn, những số liên kết disulfide không được phục hồi khiến tóc bị yếu đi. Một số chất khử khác có thể được sử dụng như ethanolamine sulfite, cysteamine HCl, ammonium thiolactate, monoethanolamine thiolactate. Và các chất oxi hóa trong uốn tóc cũng có thể chứa ammonium hydroxide, perborates, ammonium persulfate, sodium/potassium bromate.