Đinh Văn Khương
Senior Member
Luân trùng
Luân trùng là những động vật xoang giả, có kich thước hiển vi. Hầu hết luân trùng ?có chiều dài từ 0.1 – 0.5 mm, phổ biến trong các thủy vực nước ngọt, bên cạnh đó có một số loài sống ở nước mặn.
Luân trùng, tên gọi của chúng bắt nguồn từ tên Latin có nghĩa là bánh xe “wheel-bearer”; chúng cũng được gọi là wheel animalcules; bánh xe có cấu tạo từ một vài búi tơ xung quanh miệng có chức năng vận động giống như một bánh xe đang quay. Chúng tạo ra một dòng nước cuốn thức ăn vào tỏng miệng, ở đó thức ăn được nghiền bởi một hầu chuyên hoá (còn được gọi là Mastax) có chứa những chiếc hàm răng nhỏ xíu. Hầu hết luân trùng sống tự do có các cặp chân hậu để gắn chúng vào giá thể trong khi dinh dưỡng.
Hình dạng của luân trùng rất đa dạng. Lớp biểu bì của chúng phát triển tốt, lớp này có thể dày và ?cứng làm chúng có dạng như một cái hộp (box-like shape) hoặc mềm dẻo trông như những con giun (worm-like shape); Những dạng luân trùng trên được gọi là luân trùng có mai (loricate) hoặc luân trùng không có mai (illoricate). Nhiều loài luân trùng có khả năng bơi và một số dạng luân trùng không có mai di chuyển theo cách giun bò trên các cơ chất. Các loại luân trùng khác không có cuống, chúng sống bên trong các vỏ bằng gelatin. Có khoảng 25 loài có dạng sống tập đoàn, các loại khác sống trôi nổi (planktonic). Cũng như nhiều động vật có kích thước hiển vi khác, luân trùng trưởng thành có một số lượng tế bào cố định đặc trưng cho loài.
Hầu hết luân trùng thì con đực thường rất ít, thậm chí có thể biến mất trong trường hợp sinh sản đơn tính (parthenogenesis). Ở một số loài, quá trình sinh sản đơn tính tạo ra hai loại trứng; một loại trứng phát triển thành con cái binh bường trong khi loại còn lại phát triển thành một dạng con đực thoái hoá, chúng thậm chí không dinh dưỡng và chỉ tồn tại để sinh ra tinh trùng. Những trứng được thụ tinh tạo thành dạng hợp tử chống chịu (resistant zygote) có khả năng sống sót trong điều kiện khô hạn của các ao hồ, chúng chỉ phát triển thành thế hệ con cái (female generation) khi các điều kiện sống thuận lợi trở lại. Thời gian sống của con cái trong khoảng 1 – 2 tuần. Luân trùng là một trong nhiều dạng động thực vật có thể sống sót sau một thời gian dài.khô hạn và các điều kiện bất lợi khác. Điều kiện như vậy được gọi là xerobiosis, và những sinh vật có khả năng chịu đựng được điều kiện như vậy được gọi là xerobionts. Khi điều kiện môi trường trở nên bất lợi, luân trùng kết bào xác dạng trứng, khi gặp môi trường nước chúng thoát ra trở thành dạng sinh vật bơi tự do. Ở dạng bào xác, chúng có thể sống thiếu nước trong một thời gian dài, ?có thể là sống tiềm sinh vô hạn. Sự kích thích do nước thường diễn ra rất nhanh, thường không đầy 2 giờ đồng hồ. Quá trình ?sinh hoá này được hoàn thành đồng thời với khả năng tạo ra đường trehalose-a 1 - alpha của luân trùng để tạo ra pha dạng gel (gel-like phase) hỗ trợ cho các cơ quan nội bào tránh được những hư hỏng bởi quá trình dehydration này. Quá trình này cũng thấy ở nhiều sinh vật khác như bọn bò chậm (tardigrades), giáp xác Artemia salinis.
Phân loại
Có khoảng 2,000 loài luân trùng, thuộc 3 lớp. Bọn đầu móc (Acanthocephala) cũng có thể coi là thuộc bọn luân trùng. Những ngành này thuộc nhóm động vật được gọi là động vật dạng dẹt (Platyzoa).
Giới: Animalia - Động vật
Ngành: Rotifera – Luân trùng/Trùng bánh xe
Lớp: Seisonoidea
? ? ? ? Bdelloidea
? ? ? ? Monogononta
Reference:
http://www.answers.com/topic/rotifer?method=6
Luân trùng là những động vật xoang giả, có kich thước hiển vi. Hầu hết luân trùng ?có chiều dài từ 0.1 – 0.5 mm, phổ biến trong các thủy vực nước ngọt, bên cạnh đó có một số loài sống ở nước mặn.
Luân trùng, tên gọi của chúng bắt nguồn từ tên Latin có nghĩa là bánh xe “wheel-bearer”; chúng cũng được gọi là wheel animalcules; bánh xe có cấu tạo từ một vài búi tơ xung quanh miệng có chức năng vận động giống như một bánh xe đang quay. Chúng tạo ra một dòng nước cuốn thức ăn vào tỏng miệng, ở đó thức ăn được nghiền bởi một hầu chuyên hoá (còn được gọi là Mastax) có chứa những chiếc hàm răng nhỏ xíu. Hầu hết luân trùng sống tự do có các cặp chân hậu để gắn chúng vào giá thể trong khi dinh dưỡng.
Hình dạng của luân trùng rất đa dạng. Lớp biểu bì của chúng phát triển tốt, lớp này có thể dày và ?cứng làm chúng có dạng như một cái hộp (box-like shape) hoặc mềm dẻo trông như những con giun (worm-like shape); Những dạng luân trùng trên được gọi là luân trùng có mai (loricate) hoặc luân trùng không có mai (illoricate). Nhiều loài luân trùng có khả năng bơi và một số dạng luân trùng không có mai di chuyển theo cách giun bò trên các cơ chất. Các loại luân trùng khác không có cuống, chúng sống bên trong các vỏ bằng gelatin. Có khoảng 25 loài có dạng sống tập đoàn, các loại khác sống trôi nổi (planktonic). Cũng như nhiều động vật có kích thước hiển vi khác, luân trùng trưởng thành có một số lượng tế bào cố định đặc trưng cho loài.
Hầu hết luân trùng thì con đực thường rất ít, thậm chí có thể biến mất trong trường hợp sinh sản đơn tính (parthenogenesis). Ở một số loài, quá trình sinh sản đơn tính tạo ra hai loại trứng; một loại trứng phát triển thành con cái binh bường trong khi loại còn lại phát triển thành một dạng con đực thoái hoá, chúng thậm chí không dinh dưỡng và chỉ tồn tại để sinh ra tinh trùng. Những trứng được thụ tinh tạo thành dạng hợp tử chống chịu (resistant zygote) có khả năng sống sót trong điều kiện khô hạn của các ao hồ, chúng chỉ phát triển thành thế hệ con cái (female generation) khi các điều kiện sống thuận lợi trở lại. Thời gian sống của con cái trong khoảng 1 – 2 tuần. Luân trùng là một trong nhiều dạng động thực vật có thể sống sót sau một thời gian dài.khô hạn và các điều kiện bất lợi khác. Điều kiện như vậy được gọi là xerobiosis, và những sinh vật có khả năng chịu đựng được điều kiện như vậy được gọi là xerobionts. Khi điều kiện môi trường trở nên bất lợi, luân trùng kết bào xác dạng trứng, khi gặp môi trường nước chúng thoát ra trở thành dạng sinh vật bơi tự do. Ở dạng bào xác, chúng có thể sống thiếu nước trong một thời gian dài, ?có thể là sống tiềm sinh vô hạn. Sự kích thích do nước thường diễn ra rất nhanh, thường không đầy 2 giờ đồng hồ. Quá trình ?sinh hoá này được hoàn thành đồng thời với khả năng tạo ra đường trehalose-a 1 - alpha của luân trùng để tạo ra pha dạng gel (gel-like phase) hỗ trợ cho các cơ quan nội bào tránh được những hư hỏng bởi quá trình dehydration này. Quá trình này cũng thấy ở nhiều sinh vật khác như bọn bò chậm (tardigrades), giáp xác Artemia salinis.
Phân loại
Có khoảng 2,000 loài luân trùng, thuộc 3 lớp. Bọn đầu móc (Acanthocephala) cũng có thể coi là thuộc bọn luân trùng. Những ngành này thuộc nhóm động vật được gọi là động vật dạng dẹt (Platyzoa).
Giới: Animalia - Động vật
Ngành: Rotifera – Luân trùng/Trùng bánh xe
Lớp: Seisonoidea
? ? ? ? Bdelloidea
? ? ? ? Monogononta
Reference:
http://www.answers.com/topic/rotifer?method=6