Đinh Văn Khương
Senior Member
Côn trùng (Insecta)
Côn trùng là những động vật không xương sống thuộc lớp Insecta (Côn trùng hay sâu bọ), là lớp lớn nhất trên trái đất và là lớp phân bố rộng rãi nhất trong số các đại diện của ngành Chân khớp (Arthropoda). Côn trùng là nhóm đa dạng nhất trên trái đất với hơn 800,000 loài (2) 900,000 loài (1) nhiều hơn khoảng 3 lần tất cả các động vật khác cộng lại (1). Côn trùng có thể tìm thấy ở gần như tất cả các môi trường sống trên hành tinh, mặc dù chỉ có một số lượng nhỏ các loài có thể thích nghi được với đời sống ở đại dương nơi mà giáp xác là nhóm chiếm ưu thế. Có khoảng 5,000 loài chuồn chuồn; 2,000 loài bọ ngựa; 20,000 loài châu chấu; 17,000 loài bướm; 120,000 loài hai cánh; 82,000 loài cánh nửa; 350,000 loài cánh cứng và khoảng 110,000 loài cánh màng. Khoa học nghiên cứu về côn trùng được gọi là Côn trùng học (emtomology)(2).
Mối quan hệ của côn trùng với các nhóm chân khớp khác
Một vài nhóm nhỏ hơn với dạng cơ thể tương tự như Côn trùng như bọ đuôi bật (Collembola) cùng với côn trùng được xếp vào phân ngành Hexapoda (sáu chân). Côn trùng thực sự (mà được phân loại vào lớp côn trùng) được phân biệt với tất cả các chân khớp khác ở phần phụ miệng và có 11 đốt bụng. Hầu hết các loài (không phải tất cả) côn trùng trưởng thành có cánh. Một số loài chân khớp trên cạn như con rết (centipedes - nhiều chân), cuốn chiếu (millipedes - nhiều chân), bọ cạp (scorpion) và nhện (spider) thường bị nhầm lẫn với côn trùng vì có hình dạng cơ thể tương tự (có bộ xương ngoài phân đốt) nhưng thực sự chúng không phải là côn trùng.
Hình thái và phát triển.
Kích thước côn trùng dao động khoảng từ trên dưới 1 mM tới khoảng 180 mM về chiều dài. Côn trùng có cơ thể phân đốt và được bảo vệ bởi một bộ xương ngoài, một lớp cứng được cấu tạo chủ yếu bởi chitin. Cơ thể được chia thành đầu, ngực và bụng. Trên đầu có một cặp râu là cơ quan cảm giác, một cặp mắt kép và 3 mắt đơn (1) và một miệng. Ngực có 6 chân (mỗi đốt một cặp chân) và cánh (ở các loài có cánh). bụng có cơ quan bài tiết và cơ quan sinh sản. Côn trùng có một hệ tiêu hoá hoàn chỉnh, gồm một ống liên tục từ miệng tới hậu môn, khác với nhiều loài động vật chân khớp đơn giản khác có hệ tiêu hoá chưa hoàn chỉnh. Cơ quan bài tiết gồm các ống Malpighian, với chức năng thải các chất thải chứa Nitơ, ruột sau làm nhiệm vụ điều hoà áp suất thẩm thấu, đoạn cuối ruột sau có khả năng tái hấp thu nước cùng với muối Na và K. Vì vậy, côn trùng thường không bài tiết nước ra cùng với phân, thực tế thì chúng cho phép dự trữ nước trong cơ thể. Quá trình tái hấp thu này giúp chúng có thể chịu đựng được với điều kiện môi trường khô và nóng.
Hầu hết côn trùng có hai cặp cánh liên kết với đốt ngực 2 và 3. Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất đã tiến hoá theo hướng bay lượn và chính điều này đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của chúng. Các côn trùng có canh, và những côn trùng không cánh thứ sinh đã tạo nên nhóm có cánh (Pterygota). Cơ chế bay của côn trùng cho đến nay vẫn chưa được tìm hiểu một cách đầy đủ, người ta cho rằng nó phụ thuộc rất lớn vào khối không khí nhiễu loạn do cánh tạo ra. Ở những côn trùng nguyên thuỷ lại dựa chủ yếu vào tác động của hệ cơ lên cánh và cấu trúc của cánh. Ở những bọn tiến hoá hơn như Neoptera, cánh thường gập lại trên lưng khi chúng nghỉ ngơi. Ở những côn trùng này, cánh được hoạt động bởi các cơ bay gián tiếp mà giúp cánh vận động bằng cách ép mạnh lên thành ngực. những cơ này có thể co lại khi bị căng ra mà không cần sự điều khiển của hệ thần kinh, điều này cho phép chúng tạo ra tần số co dãn cơ tương đối cao.
Côn trùng sử dụng cơ quan hô hấp khí quản để vận chuyển oxy vào trong cơ thể. Các ống khí này mở ra ở bề mặt cơ thể và được gọi là lỗ thở, từ đây không khí được dẫn vào hệ thống khí quản. Không khí đi vào các mô thông qua các nhánh khí quản. Vòng tuần hoàn của côn trùng, cũng như tất cả các chân khớp khác là một hệ hở. Tim bơm dịch huyết vào động mạch qua xoang tim.
Côn trùng nở từ trứng, trải qua nhiều lần lột xác trước khi đạt tới kích thước trưởng của loài. Cách sinh trưởng này là bắt buộc vì chúng có bộ xương cứng bên ngoài. Lột xác là quá trình mà con vật thoát khỏi lớp xương ngoài cũ để tăng lên về kích thước, sau đó hình thành nên bộ xương ngoài mới. ở hầu hết các loài côn trùng, giai đoạn trẻ được gọi nymph. Nymph có thể tương tự như con trưởng thành như ở châu chấu (mặc dù cánh vẫn chưa chỉ phát triển đầy đủ cho đến giai đoạn trưởng thành. Đây là bọn biến thái không hoàn toàn. Ở bọn biến thái hoàn toàn (hầu hết côn trùng), trứng nở thành dạng ấu trùng, có dạng giống như gium đất. Ấu trùng phát triển và cuối cùng biến thái thành nhộng (pupa - một giai đoạn được bao bọc bởi kén) ở một số loài. Ở trạng thái kén, chúng trải qua những thay đổi đáng kể về hình dạng và cuối cùng chui ra khỏi kén như một con trưởng thành hay còn gọi là hoá vũ. Bướm là một ví dụ tiêu biểu cho bọn côn trùng có biến thái hoàn toàn.
dài quá mai dịch tiếp:
references
1. encyclopedia, Colombia University Press.
2. Wikipedia
http://www.answers.com/main/ntquery?s=insecta&gwp=8
Côn trùng là những động vật không xương sống thuộc lớp Insecta (Côn trùng hay sâu bọ), là lớp lớn nhất trên trái đất và là lớp phân bố rộng rãi nhất trong số các đại diện của ngành Chân khớp (Arthropoda). Côn trùng là nhóm đa dạng nhất trên trái đất với hơn 800,000 loài (2) 900,000 loài (1) nhiều hơn khoảng 3 lần tất cả các động vật khác cộng lại (1). Côn trùng có thể tìm thấy ở gần như tất cả các môi trường sống trên hành tinh, mặc dù chỉ có một số lượng nhỏ các loài có thể thích nghi được với đời sống ở đại dương nơi mà giáp xác là nhóm chiếm ưu thế. Có khoảng 5,000 loài chuồn chuồn; 2,000 loài bọ ngựa; 20,000 loài châu chấu; 17,000 loài bướm; 120,000 loài hai cánh; 82,000 loài cánh nửa; 350,000 loài cánh cứng và khoảng 110,000 loài cánh màng. Khoa học nghiên cứu về côn trùng được gọi là Côn trùng học (emtomology)(2).
Mối quan hệ của côn trùng với các nhóm chân khớp khác
Một vài nhóm nhỏ hơn với dạng cơ thể tương tự như Côn trùng như bọ đuôi bật (Collembola) cùng với côn trùng được xếp vào phân ngành Hexapoda (sáu chân). Côn trùng thực sự (mà được phân loại vào lớp côn trùng) được phân biệt với tất cả các chân khớp khác ở phần phụ miệng và có 11 đốt bụng. Hầu hết các loài (không phải tất cả) côn trùng trưởng thành có cánh. Một số loài chân khớp trên cạn như con rết (centipedes - nhiều chân), cuốn chiếu (millipedes - nhiều chân), bọ cạp (scorpion) và nhện (spider) thường bị nhầm lẫn với côn trùng vì có hình dạng cơ thể tương tự (có bộ xương ngoài phân đốt) nhưng thực sự chúng không phải là côn trùng.
Hình thái và phát triển.
Kích thước côn trùng dao động khoảng từ trên dưới 1 mM tới khoảng 180 mM về chiều dài. Côn trùng có cơ thể phân đốt và được bảo vệ bởi một bộ xương ngoài, một lớp cứng được cấu tạo chủ yếu bởi chitin. Cơ thể được chia thành đầu, ngực và bụng. Trên đầu có một cặp râu là cơ quan cảm giác, một cặp mắt kép và 3 mắt đơn (1) và một miệng. Ngực có 6 chân (mỗi đốt một cặp chân) và cánh (ở các loài có cánh). bụng có cơ quan bài tiết và cơ quan sinh sản. Côn trùng có một hệ tiêu hoá hoàn chỉnh, gồm một ống liên tục từ miệng tới hậu môn, khác với nhiều loài động vật chân khớp đơn giản khác có hệ tiêu hoá chưa hoàn chỉnh. Cơ quan bài tiết gồm các ống Malpighian, với chức năng thải các chất thải chứa Nitơ, ruột sau làm nhiệm vụ điều hoà áp suất thẩm thấu, đoạn cuối ruột sau có khả năng tái hấp thu nước cùng với muối Na và K. Vì vậy, côn trùng thường không bài tiết nước ra cùng với phân, thực tế thì chúng cho phép dự trữ nước trong cơ thể. Quá trình tái hấp thu này giúp chúng có thể chịu đựng được với điều kiện môi trường khô và nóng.
Hầu hết côn trùng có hai cặp cánh liên kết với đốt ngực 2 và 3. Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất đã tiến hoá theo hướng bay lượn và chính điều này đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của chúng. Các côn trùng có canh, và những côn trùng không cánh thứ sinh đã tạo nên nhóm có cánh (Pterygota). Cơ chế bay của côn trùng cho đến nay vẫn chưa được tìm hiểu một cách đầy đủ, người ta cho rằng nó phụ thuộc rất lớn vào khối không khí nhiễu loạn do cánh tạo ra. Ở những côn trùng nguyên thuỷ lại dựa chủ yếu vào tác động của hệ cơ lên cánh và cấu trúc của cánh. Ở những bọn tiến hoá hơn như Neoptera, cánh thường gập lại trên lưng khi chúng nghỉ ngơi. Ở những côn trùng này, cánh được hoạt động bởi các cơ bay gián tiếp mà giúp cánh vận động bằng cách ép mạnh lên thành ngực. những cơ này có thể co lại khi bị căng ra mà không cần sự điều khiển của hệ thần kinh, điều này cho phép chúng tạo ra tần số co dãn cơ tương đối cao.
Côn trùng sử dụng cơ quan hô hấp khí quản để vận chuyển oxy vào trong cơ thể. Các ống khí này mở ra ở bề mặt cơ thể và được gọi là lỗ thở, từ đây không khí được dẫn vào hệ thống khí quản. Không khí đi vào các mô thông qua các nhánh khí quản. Vòng tuần hoàn của côn trùng, cũng như tất cả các chân khớp khác là một hệ hở. Tim bơm dịch huyết vào động mạch qua xoang tim.
Côn trùng nở từ trứng, trải qua nhiều lần lột xác trước khi đạt tới kích thước trưởng của loài. Cách sinh trưởng này là bắt buộc vì chúng có bộ xương cứng bên ngoài. Lột xác là quá trình mà con vật thoát khỏi lớp xương ngoài cũ để tăng lên về kích thước, sau đó hình thành nên bộ xương ngoài mới. ở hầu hết các loài côn trùng, giai đoạn trẻ được gọi nymph. Nymph có thể tương tự như con trưởng thành như ở châu chấu (mặc dù cánh vẫn chưa chỉ phát triển đầy đủ cho đến giai đoạn trưởng thành. Đây là bọn biến thái không hoàn toàn. Ở bọn biến thái hoàn toàn (hầu hết côn trùng), trứng nở thành dạng ấu trùng, có dạng giống như gium đất. Ấu trùng phát triển và cuối cùng biến thái thành nhộng (pupa - một giai đoạn được bao bọc bởi kén) ở một số loài. Ở trạng thái kén, chúng trải qua những thay đổi đáng kể về hình dạng và cuối cùng chui ra khỏi kén như một con trưởng thành hay còn gọi là hoá vũ. Bướm là một ví dụ tiêu biểu cho bọn côn trùng có biến thái hoàn toàn.
dài quá mai dịch tiếp:
references
1. encyclopedia, Colombia University Press.
2. Wikipedia
http://www.answers.com/main/ntquery?s=insecta&gwp=8