2025, Việt Nam sẽ có 5 trường ĐH đẳng cấp quốc tế

Lê Đức Dũng

Senior Member
mình không được hưởng thì con mình được hưởng !! thế mới thấy xây được cái trường hoàn chỉnh tốn cả đống tiền, không tièn đó mày làm nên !!


vietnamnet.gif
-
Chính phủ dự kiến xây 5 trường ĐH đẳng cấp quốc tế từ nay đến 2020 để đến 2025 các trường này tối thiểu lọt "top 400". Đồng thời những bài học trong quá trình thực hiện sẽ góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện nền giáo dục ĐH của VN.

Đây là những nội dung đưa ra tại hội thảo “xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế tại VN – Cơ hội và thách thức” do Bộ GD-ĐT phối hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức ngày 12/9 tại Đà Nẵng.

Chơi với người giỏi hơn

Theo báo cáo của ADB về dự án hỗ trợ kỹ thuật trong xây dựng trường ĐH Việt Đức (VGU) và ĐH Khoa học Công nghệ Hà Nội (HUST) thì để đạt được những chuẩn mực của trường ĐH đạt đẳng cấp quốc tế, dự tính chi phí đầu tư cơ bản thành lập trường HUST là 243 triệu USD và trường VGU là 123 triệu USD (sẽ còn cao hơn nếu phải bao gồm chi phí mặt bằng).

images1856558_nhan.jpg
Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trao đổi với đại biểu bên lề hội nghị. Ảnh: HCÔng Gai Sheridando, Tư vấn trưởng của dự án nhấn mạnh: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản như vậy là cao so với những tiêu chuẩn hiện nay ở VN.


Tuy nhiên, không thể "nhân nhượng" nếu VN muốn đạt được những tiêu chuẩn quốc tế và được xếp hạng trong danh sách ĐH đẳng cấp thế giới và khu vực.
Theo đó, các trường ĐH này sẽ mở rộng và nâng cao năng lực nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Đặc biệt, có thể tham gia đào tạo đội ngũ giảng viên, góp phần nâng cao chất lượng trong toàn hệ thống giáo dục ĐH của VN.
Ông Hervé Bolot, Đại sứ Pháp tại VN cho rằng, vấn đề cốt lõi của trường ĐH đẳng cấp quốc tế là phải có sự liên kết giữa đào tạo, nghiên cứu với các ngành công nghiệp.

Cần thiết lập các viện chuyển giao công nghệ cao trong trường ĐH; đội ngũ giảng viên phải đạt tiêu chuẩn quốc tế, chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân phải dựa trên cơ sở vững chắc…
Còn theo ông Ayumi Konishi, Giám đốc ADB tại VN thì thiết kế xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế phải là “kiến trúc mở”, các trường ở VN phải đi theo hướng xây dựng từng bước, tạo điều kiện cho nhiều nhà tài trợ cùng tham gia.
Tuy VN đã chọn 15/150 để xây dựng trường ĐH trọng điểm nhưng đến nay vẫn chưa có trường nào được xếp hạng trong "Top 500 trường hàng đầu châu Á". (nguyên Thứ trưởng Bành Tiến Long)Với tinh thần “chơi với người giỏi hơn để học hỏi kinh nghiệm”, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: Chính phủ VN chọn phương án: các trường ĐH xuất sắc tham gia xây dựng một trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở VN phải đến từ một quốc gia có trình độ cao về khoa học công nghệ, kinh tế và giáo dục ĐH.

Với cách này, Phó Thủ tướng cũng cho rằng, VN có thể triển khai xây dựng đồng thời một vài trường ĐH đẳng cấp quốc tế trong khoảng 15-20 năm.

Đại học đẳng cấp quốc tế phải được "tự chủ"

Ông Ayumi Konishi, ông J. Waite Mai Thanh (đại diện WB tại VN) và Đại sứ Pháp tại VN Hervé Bolot đều cho rằng, cần phải thiết lập sự tự chủ trong quản lý, đào tạo, nghiên cứu, liên kết… đối với trường ĐH đẳng cấp quốc tế.

Theo đó, Chính phủ không còn đóng vai trò quản lý mà là vai trò hướng dẫn, hỗ trợ cho trường ĐH. Ngược lại, các trường ĐH phải có trách nhiệm rất cao trong việc minh bạch và giải trình thể chế trước Chính phủ.

Đồng tình với quan điểm này, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho biết: hiện nay, Bộ GD&ĐT đang khẩn trương hoàn tất các khung pháp lý để trao quyền tự chủ cho các trường ĐH, Bộ chỉ đóng vai trò tham vấn và điều tiết từ xa.
“Trên thực tế, nhiều giám đốc ĐH đã có quyền tự chủ, nhưng lại chưa thể tự định ra mức lương cho giáo viên. Từ năm 2003, chúng tôi đã áp dụng cơ chế các trường ĐH có thể trả lương theo ý họ muốn, nhưng các trường không có tiền nên lại phải huy động tiền của nhà nước.

images1856583_IMG_7439.JPG
15 năm tới, em bé này (hiện đang học ở trường mầm non song ngữ theo chương trình quốc tế ở Hà Nội) có lựa chọn trường ĐH của Việt Nam để theo học? Ảnh: Lê Anh Dũng
Bao nhiêu tiền để có đại học đẳng cấp quốc tế?


Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng 4 trường ĐH đẳng cấp quốc tế (ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ với vốn vay khoảng 400 triệu USD từ ADB và WB). Thông tin từ hội thảo cho hay, đây là chi phí trong giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo sẽ phải đầu tư nhiều hơn nữa, có thể lên tới 500 triệu đến 1 tỷ USD cho mỗi đại học.

"Với cơ chế học phí mới, vài năm tới bộ mặt các trường ĐH của VN có thể thay đổi, trả lương cao hơn mức lương của Chính phủ để giữ chân giáo viên giỏi, thu hút giáo viên giỏi từ nơi khác về.” - Phó Thủ tướng nói.

Đặc biệt, các trường ĐH đẳng cấp quốc tế của VN sẽ là trường công, do vẫn sử dụng ngân sách từ nhà nước, mức học phí do Chính phủ quy định (Chính phủ hỗ trợ một phần để không quá cao) và Chính phủ vẫn có đại diện trong hội đồng nhà trường.


Phó Thủ tướng phân tích: “Nếu gặp trường hợp trường đánh lừa, thu học phí cao nhưng chất lượng thấp thì sinh viên chỉ có thể biết sau khi đã kết thúc 4-5 năm học. Và hậu quả là xã hội sẽ phải gánh. Do vậy, Chính phủ phải tham gia... Trường ĐH có quyền tự chủ vận hành nhưng phải cam kết nghĩa vụ phục vụ xã hội!”.

Dự kiến lộ trình xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở VN
Giai đoạn 2009 – 2020:
- Xây dựng 5 trường ĐH quốc tế với sự tham gia của 5 quốc gia và 100 ĐH thành viên
- Xây dựng 20 trường ĐH mạnh, đạt trình độ trung bình so với quốc tế
(20 trường này là ĐH nghiên cứu)
- 180 trường ĐH còn lại yếu so với quốc tế; 250 trường cao đẳng trung bình và yếu so với quốc tế
Sau năm 2025:
5 trường ĐH đạt đẳng cấp quốc tế (có thứ hạng từ 200 – 400 thế giới)
20 trường ĐH mạnh và khá so với quốc tế
200 trường ĐH khác trung bình so với quốc tế
300 trường cao đẳng trung bình so với quốc tế
(Theo báo cáo chính thức của Bộ GD-ĐT tại hội thảo)
Hải Châu
 
Hài, bác Nhân đã hạ chỉ tiêu từ top 200 xuống top 400.:nhannho:
Nhưng mình nghĩ bác ấy nên hạ xuống top 1000 cho an toàn. Bởi vì những trường trong top 400 mình biết nó phải như thế nào rồi.:cuchuoi:
Chưa kể 5 cái đại học đẳng cấp quốc tế đấy, có hốt tất cả NCS, Doctor, Post-doc và Professor Việt kiều ngoài nước về cũng còn chưa đủ tầm nâng nó lên top 1000.
Mà giả sử hốt được họ về bác Nhân định cho họ ăn rau muống trường kỳ chắc (mặc dù ban đầu họ có thể thích ăn rau vì ở Mỹ ở Đức không có rau muống). Giả sử mời thầy Tây về dạy họ chịu về chắc (cứ xem các trường ĐH ở Trung Quốc); người nhận lời mời thì không giỏi, hoặc ham tiền...v.v. Mà một trường mạnh chỉ khi đội ngũ mạnh thực sự gắn bó với trường (để còn research, hướng dẫn Ths, Ts, tăng peer review ranking cho trường, chứ còn mời GS giỏi về chỉ để dạy kiến thức trong textbook thì cũng vứt.)
Mà đọc kỹ thấy cái mục tiêu thứ 2 khả dĩ đấy, năm 2150, tức là hơn 100 năm sau năm 2025 thì VN chắc sẽ có ĐH lọt vào top 400.
À, mà mình cảm thấy cái này cũng hơi "bệnh thành tích" đấy nhỉ, đúng không các bạn.
Tái bút: là một người Huế mình còn đau một nỗi niềm riêng là Đà Nẵng đã nhanh chân hơn lobby được cái địa điểm xây ĐH quốc tế, mặc dù mình biết đội ngũ trí thức ở Đà Nẵng hiện nay rất mỏng so với Huế và ĐH Đà Nẵng còn thiếu nhiều ngành nghề. Dù biết cái ĐH quốc tế này rốt cục cũng chả đi đến đâu, nhưng mà lòng vẫn thấy ấm ức.:mrgreen:
 
Hi anh Lương
Em nghĩ lập đại học quốc tế là quan điểm đúng đó chứ. Bao nhiêu năm nay ta tập chung vao ĐHQG Hà nội và ĐHQG TPHCM. Hiên giờ chất lượng hai đại học đó thế nào so với trình độ quốc tế mọi người đều biết cả. Số lượng bài báo quốc tế của hai ĐHQG nói trên rất thấp ( hầu nhủ là không có). Lôi kéo trọng dụng việt kiều có trình độ cao về VN làm việc cũng là hướng đi hay. Đại Học quốc tế Đà nẵng cũng gần chỗ anh Lương đấy chứ?
 
Nhu bac Luong noi muc tieu dat ra nhu vay la qua xa voi neu khong muon noi la khong the thuc hien duoc. Quan trong nhat la yeu to dong bo.

- Ong GS nao duoc moi ve VN lam viec, roi phai di lo cac loai thu tuc de xin de tai, hoac ong y co san de tai, lo thu tuc de tien ve den VN, trich % cho bo phan quan ly... chac sau 2 lan thi ong y chay mat dep.

- Lai nua 1 dang dat hoa chat mat tu 2-4 nga`y hoac tham chi nhieu noi co san bo phan cung cap no.i ta.i thi nhieu thu can cai co ngay. Ve VN dat cai gi cung phai mat tu 1 tuan-1 thang, sau 2 lan thi ong y chay mat dep.

- O EU hay US cu xem gia tren website roi dat mua theo dung gia day, ve VN phai qua dai ly, gia luc nao cung bi day cao gap 1,5-2 lan, sau 2 lan thi ong y chay mat dep.

- O cac nuoc tien tien cong dong khoa hoc manh, can trao doi cai gi, hop tac, gui mau... de cung lam va day nhanh tien do publish de~ da`ng, o VN thi chua duoc nhu vay, thu tuc gui mau ra nuoc ngoai thi thoi roi, sau 2 lan thi ong y chay mat dep.

- O cac noi nhu US va EU la cai lo` hut nhan tai, cac ong GS chi can xin duoc grant thi viec tim bon culi kha´ de lam cho ong y de dang hon nhieu, o VN con chua co cai gi goi la hoc bong Master hay PhD, muon hoc Master hay PhD toan phai bo tien tui, cha biet thu hut duoc ai, sau 2 lan thi ong y chay mat dep.

................

Hy vong khi Bo GD dat ra chi tieu tren co tinh den nhung yeu to nay va cai thien dong bo moi mat thi moi co hy vong, chu xay cai truong QT to dep, chi la cai ngon thoi.

Xin loi vi khong typing co dau duoc.
 
hè hè đến năm mình có top 1000 thì những trường bây giờ nó chạy ra phía trước thành -1000 rồi...
thôi giờ cứ cố gắng ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua và tốt nhất như có thể là cũng ok rồi , mãn nguyện lắm rồi ...
 
miễn sao học ở đâu mà sau này xin được việc là ok rùi,ở đâu mà chẳng có tiêu cực,ở đâu mà chẳng có người giỏi kẻ dốt...dù là quốc tế hay dân lập thì chỉ cần học hết mình là ổn hết...
....XÃ HỘI QUAN TRỌNG BẰNG CẤP!!!:ah:
 
Đọc thử bài bác Tụy bằng tiếng Việt:

Năm mới, chuyện cũ - Hoàng Tụy
15:57:53 02/02/2007 Cách đây mấy tháng, phát biểu trước Quốc hội khi từ nhiệm, nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải nhìn nhận chúng ta không thành công trên lĩnh vực giáo dục và khoa học. Rồi chỉ mới cách đây vài tuần, ông Lý Quang Diệu, một chính khách lỗi lạc của Singapore, lại có lời nhắc nhở chúng ta: thắng trong giáo dục thì sẽ thắng trong kinh tế.
Trong không khí rộn ràng chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế khi đất nước gia nhập WTO, mong rằng hai ý kiến đó sẽ tạo một cú hích mới cho giáo dục và khoa học Việt Nam.

[FONT=times new roman,times] Thật ra sự trì trệ triền miên của giáo dục và khoa học Việt Nam nhiều năm qua là sự thật khách quan dễ nhận thấy. Nhưng đây là lần đầu tiên sự thật đó được chính thức thừa nhận bởi người có trách nhiệm chính quyền cao nhất trong một thời gian dài. Nếu như trung thực với chính mình, không tự ru ngủ bằng những thành tựu ảo hay phóng to lên nhiều lần, là điều kiện đầu tiên để thành công trong hội nhập thì nhận định của vị cựu lãnh đạo không những không làm chúng ta bi quan mà ngược lại đã gây cho chúng ta niềm tin vào tương lai hơn, vì từ đây ta biết rõ hơn mình đang ở đâu và cần làm gì để gỡ lại sự chậm trễ. [/FONT]
b2eb9fb24a.jpg
[FONT=times new roman,times] Singapore là nước đã bứt phá ngoạn mục từ kém phát triển lên tiên tiến trong thời gian 3-4 thập kỷ, nhờ chủ yếu đã biết chăm lo giáo dục từ sớm. Cho nên lời khuyên của họ có trọng lượng thuyết phục hơn cả mọi lý thuyết. Phải nói rằng chúng ta cũng đã có những nhà lãnh đạo sáng suốt nhìn nhận tầm quan trọng “quốc sách hàng đầu” của việc phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ. Song thực tế nhiều năm qua cho thấy không dễ gì đưa được quan điểm ấy vào cuộc sống. Trong khi các văn kiện, nghị quyết nhấn mạnh quan điểm ấy, thì nhiều chính sách thực tế liên quan giáo dục và khoa học đều thể hiện tinh thần ngược lại. Hy vọng lần này tác dụng cộng hưởng của hai ý kiến trên của hai chính khách Việt Nam và Singapore sẽ làm thức tỉnh quan chức ở mọi ngành để có quyết tâm cao hơn góp sức chấn hưng giáo dục và khoa học vì sự phát triển của đất nước.
1. Cần một tầm nhìn chiến lược. Muốn vực giáo dục và khoa học lên, vấn đề đầu tiên không phải là “tiền đâu”. Thật sự nguyên nhân chính của sự suy thoái giáo dục, khoa học không phải do thiếu tiền mà do ta không biết cách làm, cách quản lý. Giáo dục, khoa học là một hệ thống phức tạp, chỉ có thể quản lý tốt trên cơ sở hiểu biết đầy đủ các đặc thù hệ thống của nó, và chú ý kinh nghiệm của thế giới và các thế hệ đi trước. Điều quan trọng trước hết là phải có một tầm nhìn chiến lược về mục tiêu trước mắt và lâu dài, hướng đi, nhu cầu, khả năng trong xu thế phát triển, tư tưởng chỉ đạo, đường lối tổng quát, cũng có thể gọi là triết lý làm giáo dục, khoa học thời nay, trong thế giới này. Thiếu một tư duy hệ thống, một tầm nhìn chiến lược bao quát thì dễ sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, “cải cách” liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều mà kết quả chỉ là làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, không có sinh khí. Thế giới ngày nay biến chuyển mau lẹ, xây dựng giáo dục và khoa học trong thế giới đó đòi hỏi những người lãnh đạo không chỉ có tâm trong sáng và trung thực mà còn phải đủ tầm nắm bắt nhanh nhạy những biến chuyển đó và có khả năng suy nghĩ sáng tạo để tìm ra chiến lược phát triển thích ứng nhất.
[/FONT]
[FONT=times new roman,times]
e63254e0f0.jpg

Được điểm 10- Trần Thế Long2. Một lỗi hệ thống cần sửa.
Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn trong lĩnh vực giáo dục, khoa học. Một nền giáo dục, khoa học đã thiếu vắng các đạo đức cơ bản ấy tất nhiên hoạt động không bình thường và sớm muộn lâm vào bế tắc. Khi đó chỉ bằng những điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi trong điều hành không cứu nổi hệ thống, mà phải tìm cho ra các lỗi hệ thống và sửa các lỗi đó mới mong đưa được hệ thống ra khỏi khủng hoảng. Vậy cái lỗi hệ thống gì khiến cho giáo dục, khoa học của ta thiếu cần, thiếu kiệm và thiếu cả liêm, chính? Câu hỏi này đặt ra không chỉ cho giáo dục, khoa học mà cho cả bộ máy nhà nước ta. Chính vì cái lỗi hệ thống đó nên cuộc chiến chống tham nhũng cho đến nay vẫn chưa thành công.
Mấu chốt nằm ở nghịch lý lương/thu nhập: lương chỉ bằng một phần nhỏ thu nhập ngoài lương, thì đương nhiên người lao động giáo dục, khoa học phải dồn phần lớn tâm trí, khả năng để kiếm thu nhập ngoài lương, mà phần này thì phân phối tùy tiện, bất công, không có kiểm toán chặt chẽ, cho nên là nguồn gốc nhiều sự tiêu cực mà ai cũng biết. Vì sao nói đó là lỗi hệ thống? Vì nó chi phối, làm méo mó mọi quan hệ trong hệ thống. Đến mức bây giờ dù có tăng lương cho đủ sống mà không sửa cái lỗi hệ thống đó thì cũng chẳng thay đổi được tình hình. Thậm chí lỗi hệ thống đó đã sản sinh ra những quan hệ vận hành lâu ngày trở thành một phần cấu trúc của hệ thống nên ngay khi đã sửa lỗi đó rồi cũng phải đợi một thời gian và có thể phải sửa thêm một số lỗi hệ thống khác nữa mới đưa được hệ thống về hoạt động bình thường.
Dù sao, giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cần, kiệm, liêm, chính và do đó nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục, khoa học. Tôi dám cam đoan còn tồn tại nghịch lý đó thì giáo dục, khoa học còn hư hỏng. Mà giải tỏa cái nghịch lý đó hoàn toàn khả thi về tài chính, nhưng đương nhiên khó khăn tư tưởng khá lớn vì nó đụng chạm đến một bộ phận khá đông quan chức được hưởng lợi từ cách quản lý thiếu minh bạch này. Chung quy vấn đề là ta có thật sự muốn xây dựng một nền giáo dục, khoa học lành mạnh hay không, đó chính là câu hỏi phải trả lời trung thực.
3. Tư duy toàn cầu. Muốn thắng cuộc trong thế giới toàn cầu hóa, tất nhiên mọi suy nghĩ và hành động đều phải chú ý tới luật chơi chung. Phải hướng tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực hoạt động thì mới có thể hợp tác và cạnh tranh được. Tiếc thay, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, tiêu chuẩn đánh giá trình độ một công trình khoa học, một nhà khoa học, một trường đại học, chúng ta đều có tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Có những công trình khoa học, những luận văn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuật có tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế, v.v..., nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn. Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất. Oái ăm là trong khi đó nhiều người có năng lực xứng đáng, nhất là người trẻ, lại bị loại vì không đạt các tiêu chuẩn vớ vẩn, không giống ai, của ta. Chẳng lạ gì có những ông A bà B trong nước được coi là nhà khoa học nổi tiếng mà trên quốc tế hoàn toàn vô danh. Thời gian gần đây lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ các quan chức hàng loạt viện sĩ “hữu nghị”, viện sĩ “chạy”, viện sĩ “mua”, hoàn toàn không xứng với danh hiệu mà nhiều người vẫn tưởng là dành cho những tài năng lỗi lạc.
Chuẩn mực xô bồ như vậy mà ngày nọ tôi còn thấy môt vị lãnh đạo của Hội đồng Chức danh GS tuyên bố trên báo rằng GS... phải là người xây dựng được trường phái học thuật của mình(!). Thật tình tôi không biết cái gọi là trường phái học thuật đó có gì chung với khái niệm trường phái học thuật theo cách hiểu thông thường ở các nước. Với chuẩn mực khác người như vậy, làm sao có thể hội nhập quốc tế dễ dàng được..
Cái nguy hại của việc huênh hoang bất chấp các chuẩn mực quốc tế là ta tự lừa dối ta quá dễ dàng, cuối cùng thật giả lẫn lộn, chẳng còn sự phân biệt nào giữa người có năng lực thật và những kẻ bất tài. Các chức danh GS, PGS ở Việt Nam bây giờ quá rẻ, đến độ khi bàn về nhân tài mà nêu GS nọ GS kia, nhiều người nghe cũng đủ ớn.
4. Trách nhiệm cộng đồng. Kinh tế tri thức thực chất là nền kinh tế dựa vào chất xám và tài năng. Cho nên công cuộc hội nhập muốn thành công phải coi trọng đặc biệt vấn đề thu hút nhân tài. Đã từ nhiều năm Nhà nước hô hào người Việt thành tài ở nước ngoài về nước làm việc. Chủ trương đó rất đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên sự thực thì vấp phải quá nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất là chủ trương chung thì thoáng nhưng đi vào cụ thể thì còn nhiều chính sách rất bí. Từ cấp lãnh đạo cao đến người dân chưa phải ai cũng đã thật sự thông suốt với chủ trương này.
Chẳng hạn các cơ quan quan trọng như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ đều có nhiều quy định kỳ lạ, thể hiện những quan niệm rất bảo thủ và lạc hậu hoàn toàn không đếm xỉa gì đến những yêu cầu tối thiểu về điều kiện làm việc cho các nhà khoa học. Một vài ví dụ: theo quy định của bộ Tài Chính, tiêu chuẩn không gian nơi làm việc cho giáo sư thấp hơn cả trưởng phó phòng hành chính, giáo sư phải chen chúc nhiều người trong một phòng chật hẹp, tìm đâu có chỗ để nghiên cứu, thảo luận, gặp gỡ giúp đỡ sinh viên. Tiền thù lao giờ giảng thì phụ thuộc chức vụ hành chính một cách lố bịch (Thứ, Bộ trưởng được thù lao giờ giảng cao hơn hẳn GS, PGS). Xếp ngạch bậc lương thì GS bậc cao nhất cũng chưa bằng chuyên viên cao cấp bậc thấp nhất, và số bậc nhiều đến mức phần lớn nhà khoa học giỏi làm việc nghiêm túc đến khi nghỉ hưu vẫn chưa leo lên được đến bậc cuối cùng, trừ khi tuổi hưu được gia hạn đến... 90 hay 100.
Hôm nọ tôi thấy trên báo còn có độc giả phát biểu: những người được đi học thành tài ở nước ngoài chưa đóng góp được gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi điều kiện đãi ngộ này nọ là không ổn. Ai dám bảo ý kiến đó sai, nhưng sao mà nó giống với ý kiến: giáo sư là gì mà đòi hỏi buồng riêng, hoặc: anh là nhà khoa học Việt kiều, đã sống sung túc bao nhiêu năm, bây giờ về nước công tác sao còn đòi hỏi ưu đãi nọ kia. Với những quan niệm như thế thì thôi xin đành gác lại chủ trương thu hút người tài, và lùi cái thời hạn đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu sang thế kỷ 22 hoặc sau nữa.
5. Tư duy tốc độ. Để hội nhập thành công trong thế giới ngày nay, không chỉ cần hiệu quả mà còn cần tốc độ, hay nói đúng hơn đáp ứng nhanh trở thành một lợi thế đáng kể trong kinh doanh, nhiều khi còn quan trọng hơn hiệu quả.
Số là, cho đến gần đây, tiêu chí hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh là hiệu quả và thông thường các hãng tập trung vào dự đoán nhu cầu của khách hàng và tăng hiệu quả đồng vốn. Logic kinh doanh đó thích hợp khi thị trường ổn định và thay đổi chậm. Nhưng ngày nay, khi thị trường khó tiên liệu và thế giới biến chuyển nhanh chóng mặt, thì cái logic ấy không còn thích hợp mà phải nhường chỗ cho một logic mới đặt ưu tiên vào khả năng thích ứng mau lẹ nhiều hơn là hiệu quả. Trước kia cặm cụi “làm-ra-và-tiêu-thụ” – make-and-sell thì bây giờ phương châm hoạt động là thường xuyên “nắm-bắt-và-ứng-đáp” – sense-and-respond. Tốc độ, khả năng thích ứng mau lẹ trở thành yêu cầu tối quan trọng, nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội.
Trong cái thế giới đổi thay cực nhanh này, khó ai chấp nhận kiểu làm việc lề mề, chậm chạp như chúng ta. Cải cách hành chính hơn mười năm chưa thấy kết quả gì, chỉ thấy làm rối thêm một số việc đơn giản. Nhiều lỗi hệ thống là nguyên nhân chủ yếu sinh ra tham nhũng, quan liêu, lãng phí tràn lan, nhưng vẫn cứ tồn tại năm này qua năm khác. Kỳ họp Quốc hội nào cũng lên án mạnh mẽ tham nhũng, thế mà rồi cái quốc nạn ấy không hề bị đẩy lui. Ngay cái tập quán phong bì là nét văn hóa đáng xấu hổ của xã hội ta mà hàng chục năm rồi vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí văn phòng một cơ quan đầu não còn làm gương xấu. Giáo dục, khoa học trì trệ, trong lúc chất xám bị sử dụng hết sức lãng phí. Năm này qua năm khác, hội thảo đi rồi hội thảo lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không có được một chính sách cụ thể khả dĩ đem lại chút niềm tin trong vấn đề này. Bàn đi tính lại mãi chuyện khuyến khích tài năng, cuối cùng chỉ làm được mỗi việc là ghi tên các thủ khoa đại học vào bảng vàng để ở Văn Miếu! Từ hơn mười năm về trước đã có biết bao đề nghị hợp lý về cải cách, chấn hưng giáo dục, từ việc đào tạo tiến sĩ, công nhận GS, PGS, đến nhiều việc cụ thể khác về thi cử, phân ban, tuyển sinh, tự chủ đại học,v.v. có thể nói không có vấn đề gì thiếu những đề nghị cải cách cụ thể, nhưng mãi đền gần đây một số những đề nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu. Cải cách quản lý luôn là những chủ đề nóng của giáo dục và khoa học, nhưng cũng không có lĩnh vực nào đổi mới chậm chạp hơn giáo dục và khoa học. Ngay gần đây nhất cái ý tưởng hay lập một đại học đẳng cấp quốc tế, từ lúc được Thủ Tướng chấp nhận và nêu ra, được nhiều nhà khoa học Mỹ nhiệt tình ủng hộ, đến nay đã gần hai năm vẫn chưa thấy hình hài rõ ràng. Anh bạn tôi kể lại trong khi đó Thủ tướng Trung Quốc vừa sang thăm một nước Phương Tây, thỏa thuận với họ cho một đại học nổi tiếng mở chi nhánh ở Bắc Kinh thì chỉ mấy tháng sau họ đã chiêu sinh. Cơ hội gì cũng chỉ trong thời gian nào đó, có bao giờ là vĩnh viễn.
Sống trong thời đại internet, tên lửa vũ trụ, điện thoại di động, mà cứ giữ nếp tư duy chậm chạp và làm việc rùa bò thì mọi thời cơ bay đi hết. Không ai đủ kiên nhẫn chờ chúng ta. Thời đại công nghệ thông tin vừa mới bắt đầu chưa lâu la gì thì nay họ đã bàn chuyển qua thời đại công nghệ nano, chưa biết rồi sẽ còn những gì bất ngờ nữa đây để liệu mà vừa làm vừa nghĩ vừa chạy, vẫn không kịp “sense-and-respond”.
[/FONT]
 
Và tiếng Anh do bọn Harvard dịch:
New Year, Old Story
A couple of months ago, in his speech to the National Assembly declaring his resignation, Prime
Minister Phan Van Khai conceded that we have failed in education and science. And a few weeks
ago, Lee Kuan Yew, Singapore’s outstanding politician, reminded us that success in education is
a prerequisite for economic success.
In the bustling atmosphere of the country’s WTO accession and preparations for international
integration, we hope the comments from these two leaders will provide a strong new jolt for
Vietnamese science and education
.
The endless stagnation in Vietnamese science and education that has existed for years is indeed
an objective reality that is easily observable. But it was the first time in a long time that this truth
was officially acknowledged by the most senior official in the government. If we are honest with
ourselves and do not lull ourselves with illusionary or exaggerated achievements, which is a
prerequisite for success, then the former Prime Minister’s assessment should not make us
pessimistic, but to the contrary, should give us more faith in our country’s future. That’s because
it tells us more clearly where we are and what we have to do to make up for lost time.
Singapore’s meteoric rise from underdevelopment to modernity within three or four decades is
mainly due to their early focus on education. Hence, their advice is more compelling than any
theory. It must be acknowledged that we have had bright leaders who understood the importance
of developing education, science and technology and viewed it as a “national priority.”
Nevertheless, the practice over past years shows that it is not easy to translate this priority into
action. While policy statements and resolutions stress this priority, too many of the policies that
are most relevant to science and education in fact reflect a very different spirit. We hope this time
that these two synergistic comments from Vietnamese and Singaporean politicians will serve as a
wake-up call to officials serving in every field so that they have a stronger commitment to the
development of science and education for the sake of the country’s prosperity.

1. Need for a strategic vision. Money is not the biggest obstacle to elevating education and
science. The decay of our science and education is not due to a lack of money but to the fact that
we do not know what to do or how to manage. Science and education is a complicated system
that can be well managed only when its specific features are thoroughly understood and informed
by the experience of the world and of preceding generations. Most important of all is a strategic
vision for immediate and long-term objectives, direction, demand, capacity relevant to
development trends, guiding ideology, and a general path of actions; this constitutes a philosophy
of science and education in the present world. Without systematic thinking and a comprehensive,
strategic vision, one could easily make himself busy with trivia and a here today there tomorrow
approach, endlessly “reforming” in a fragmentary and inconsistent way, exacting huge costs but
resulting in nothing more than complicating a system that is already crippled and devoid of
vitality. Given the fact that the present world is changing rapidly, the development of science and
education requires leaders who are not only well-intentioned and honest but who also have the
ability to quickly perceive changes and think creatively to find the most adaptive development
strategy.

2. System errors must be fixed. Nowhere are the four virtues of diligence, efficiency, honesty,
and integrity, more needed than in education and science. An education and science system that
lacks these moral principles will, of course, not function properly and, sooner or later, will
stagnate. Minor internal adjustments based on a management feedback mechanism cannot rescue
the system, instead the only way to rescue the system from crisis is to find and fix the system
errors. So what are the errors that make our science and education system lack diligence,
efficiency, honesty, and integrity? This question should be asked not only of science and
education but also of the entire state apparatus. These very errors have so far defeated our anticorruption
campaign. The key lies in the salary/income paradox: official salaries are only a
fraction of non-salary income. When this happens, science and education workers have of course
to dedicate all their intellect and talent to the pursuit of non-salary income which is distributed
chaotically and unfairly, and cannot be strictly audited, and which is the root of many evils that
are well known to us all. Why is this called a system error? Because the salary/income paradox
dominates and distorts all relationships in the system. It’s so bad that increasing salaries to a
living wage without fixing the errors will not improve the situation. This system error has
produced relationships that over time have become a structural part of the system, thus even after
fixing the error one will have to wait for some time, and perhaps fix additional errors, before the
system begins to function normally again. In the final analysis, eliminating the salary/income
paradox is a prerequisite for ensuring the virtues of diligence, efficiency, honesty, and integrity
and thereby improving standards in science and education. I would go so far as to guarantee that
as long as the paradox exists our science and education will remain a failure. Of course, fixing the
paradox is financially feasible but ideologically quite difficult because it affects a significant
number of officials who benefit from non-transparent governance. On the whole, the question is:
are we really committed to a strong and healthy science and education system? That question
must be answered honestly.

3. Think globally. If we are to win in the globalized world, all our thoughts and actions must take
account of the common rules of the game. We must move towards and obey international
standards in all areas of activity if we are to cooperate and compete. Unfortunately, from PhD
training, to the selection of professors, to criteria for evaluating the quality of a scientific work, a
scientist, or a university…we use our own standards that bear no resemblance to those used
elsewhere. We even have scientific works and PhD theses in internationally significant fields like
the basic sciences, economics, etc. that wouldn’t be worth the paper they are printed on if they
were assessed according to international standards. Many of our professors do not deserve their
title and a large number of them fall far below basic international standards. Ironically, there are
many others, especially younger people, with excellent expertise and talent, but who are
disqualified because of our trivial criteria that are of no consequence in other countries. As result,
one is not surprised to learn that Mr. A or Ms. B who in Vietnam is regarded as famous scientist,
is in fact totally unknown internationally. Recently, a great number of officials have acquired
academic titles dishonestly; they are completely undeserving of these honors but many people
still believe that they are reserved only for individuals of outstanding talent.

Our standards are so chaotic and yet, the other day I heard the chairman of the Council on
Professorships declare in a newspaper that to be entitled to the rank of professor one… must
establish one’s own school of scholarship! In all honesty I do not know whether what the
chairman refers to as a “school of scholarship” has anything in common with the concept of a
“school of scholarship” as it is understood in other countries. With such exceptional standards
how can we possibly expect to integrate?
The danger of empty braggadocio without regard to international standards is that we easily
deceive ourselves and in the end what is true and what is false are confused and we can no longer
distinguish between the talented and the inept. The titles of professor and associate professor in
Vietnam have been so cheapened that when, in a discussion of talent, one hears mention of this or
that professor, most people feel sick.

4. Accountability. A knowledge-based economy is in fact an economy that relies on intellect and
talent. Hence, successful integration requires paying special attention to attracting talent. For
years the government has loudly called for Vietnamese who have succeeded abroad to return.
This position is correct and necessary. In reality, however, it has encountered a number of
obstacles, of which the biggest one is that while the policy is enlightened, the policy environment
underneath it is completely closed. From top officials to common people, by no means everyone
understands this policy. For example, some important government agencies like the Ministry of
Finance, the Ministry of Interior, and the Office of the Government all have bizarre regulations
reflecting very conservative, outmoded perceptions that contribute nothing to the minimal basic
conditions scientists require. A few examples… According to a Ministry of Finance regulation, a
professor is entitled to fewer square meters of work space than a mid-level bureaucrat. How can
professors conduct research or meet and discuss with their students when they are squeezed into
such narrow offices. Ironically, a professor’s hourly teaching rate is determined by his rank
within the bureaucracy (e.g., a minister or deputy minister is paid much more for an hour of
teaching than a professor). On the government salary scale, the most senior professor is paid less
than a medium level bureaucrat. There are so many salary grades that the majority of hardworking,
talented scientists can never reach the highest grade…unless they worked until the age
of 90 or 100.
The other day I read a letter printed in a newspaper complaining about the audacity of
Vietnamese who earned a degree abroad and have yet to contribute to the nation but who are
already demanding special incentives. Who dares to dispute the comment, but it sounds very
much similar to the attitude “who are professors to demand a personal office?” or “you are an
overseas Vietnamese scientist and have enjoyed a life of privilege for years, now you are serving
your country so why are you demanding this and that entitlement?” With attitudes like these we
might as well abandon the policy of attracting talent and postpone our escape from poverty and
backwardness until the 22nd century—or even later.

5. Speed. Successfully integrating into the world today requires both efficiency and speed, or,
more precisely, the ability to respond rapidly has become a significant advantage in business, and
is sometimes more important than efficiency. That’s because until recently the first criterion in
business was efficiency, and firms prioritized anticipating their customers’ demands and
increasing capital efficiency. That business logic is appropriate when markets are stable or
changing slowly. Nowadays, however, when the market is unpredictable and the world is
changing at dizzying speed that logic has been rendered obsolete and been superceded by a new
logic that prioritizes rapid response over efficiency. If the previous strategy was “make-and-sell”
the preferred course of actions today is “sense-and-respond.” Speed and the ability to respond
rapidly are of central importance if one is not to miss opportunities.
In a world changing at an extremely rapid pace, our slow, lollygagging work ethic is
unacceptable. The administrative reforms of the past 10 years have not produced any results but
have in fact made simple procedures more complicated. System errors are the main cause of the
corruption, red tape and extravagant waste that persist from year to year. Every National
Assembly session vigorously denounces corruption but this national curse is never rolled back.
The practice of giving envelopes of cash is a shameful cultural attribute of our society that has
stubbornly existed for decades; in fact even the office of a top government agency sets a bad
example. Science and education stagnate while talent is profligately wasted. Year after year,
countless conferences and workshops are organized to discuss the problem yet not a single
concrete, feasible policy has emerged that might present a ray of hope. We have discussed ad
nosium the importance of incentizing human capital but at the end of the day the only thing we
have done is carve valedictorians’ names on a golden list hanging in the Temple of Literature!
For more than ten years there have been any number of reasonable recommendations regarding
education reform and development, from the training of PhD students and the awarding of
professorships to specific proposals related to the organizing of entrance exams, tracking, student
selection, university autonomy, etc. For every problem we face, no shortage of substantive
reforms have been proposed, but only very recently have these proposals been examined. Reform
is always a hot topic in science and education, but no sector has been as slow to reform. Most
recent is Prime Minister Phan Van Khai’s excellent idea to build a top-tier university that has
received the support of American scholars. In the two years since the concept was first raised,
there has been no progress. A friend of mine told me that the Chinese Prime Minister recently
visited a western country and agreed that one of their prestigious universities would open a
branch campus in Beijing; within a few months the school began to recruit students. Windows of
opportunity do not remain open for long.

In a world of the Internet, spaceships and mobile phones if we cling to our sluggish thinking and
continue to work at a turtle’s pace, opportunity will pass us by. No one is patient enough to wait
for us. The era of information technology has just begun and already people are discussing the
transition to the era of nanotechnology; unable to anticipate the surprises that may lie ahead, even
if we think, act, and run at the same time, we may still be unable to “sense-and-respond”.
 
đọc mới thấy không những người nằm trong chăn mà người...đi ngoài đường thôi cũng biết chăn có ..rận, nói chung tôi thấy những bài viết này khá chính xác vì nó được viết ..từ thực tế nhất.
khổ nỗi là người việt nam mình được cái ..dễ tính, dẽ mãn nguyện...nên suốt ngày ..tự sướng bằng cách ngồi khen nhau và luôn cảm thấy mình thế là tốt rồi là giỏi rồi.. nên cứ mãi...tụt lùi..., có lẽ đó cũng là do cái tính cách người việt và cũng có thể do hoàn cảnh và dk khách quan làm cho người việt ít được đi ..du lịch..để tiếp xúc và học hỏi và xem người ta đang ở tận đẩu tận đâu !!:cry:
 
Trong bài đánh giá của Harvard có đoạn nói về nguyên nhân lịch sử của sự yếu kém trong nền khoa học VN: thực dân Pháp đã không phát triển các bậc giáo dục ĐH trong thời kỳ cai trị, thậm chí là so với các cường quốc thuộc địa khác. Một lý do nữa để "ghét" Pháp. Đả đảo Pháp! (sorry các đồng chí đang học ở Pháp cò nhé).:mrgreen:
Một lý do nữa là các nhà khoa học ở VN phần lớn đều được đào tạo ở Liên Xô. Ngoại trừ Toán ra Liên Xô đã là một cường quốc thì không nói làm gì. Còn các ngành Hóa, Lý, Sinh thử xem ông thầy Liên Xô có vị trí như thế nào thì biết trò VN có vị trí như thế đấy thôi. Thế nên lại "ghét" Liên Xô thêm một bậc nữa.

Tính ra các trường ĐH ở VN phần lớn được thành lập sau năm 1975, thành tích và bề dài lịch sử đều kém nên làm sao lọt vào top này top nọ được.:botay:
 
Trong bài đánh giá của Harvard có đoạn nói về nguyên nhân lịch sử của sự yếu kém trong nền khoa học VN: thực dân Pháp đã không phát triển các bậc giáo dục ĐH trong thời kỳ cai trị, thậm chí là so với các cường quốc thuộc địa khác. Một lý do nữa để "ghét" Pháp. Đả đảo Pháp! (sorry các đồng chí đang học ở Pháp cò nhé).:mrgreen:
Một lý do nữa là các nhà khoa học ở VN phần lớn đều được đào tạo ở Liên Xô. Ngoại trừ Toán ra Liên Xô đã là một cường quốc thì không nói làm gì. Còn các ngành Hóa, Lý, Sinh thử xem ông thầy Liên Xô có vị trí như thế nào thì biết trò VN có vị trí như thế đấy thôi. Thế nên lại "ghét" Liên Xô thêm một bậc nữa.

Tính ra các trường ĐH ở VN phần lớn được thành lập sau năm 1975, thành tích và bề dài lịch sử đều kém nên làm sao lọt vào top này top nọ được.:botay:

Cũng không đến nỗi thế bác Lương ạ. Em nghe nói ngành Sinh học ở Hungary cũng có mấy ông ghê gớm phết đấy. Ngành hoá thì em không biết, nhưng Lý thì em nghĩ Liên Xô giỏi đó chứ, nếu không làm sao cạnh tranh chạy đua vũ trang với US được. Theo em quan trọng là họ có nhưng họ mang ra dạy cho ta cái gì, và ta có chịu học/có học được hay không thôi.
 
Nói một cách khác, cần đặt lại vấn đề là người VN đã từng có một nền khoa học chưa, hay chỉ là ảo tưởng của các cụ ngày xưa.
Văn hóa, bản chất con người VN có phù hợp với công việc làm khoa học hay không? Không phải ngẫu nhiên mà thế giới có sự phân hóa rõ rệt: đa phần vận động viên, ca sĩ là da đen, đa phần nhà khoa học là Do Thái, Da trắng hoặc Đông Á. Các nước Philipine, Indonesia, Thái Lan dù kinh tế khá nhưng chưa bao giờ là những nước mạnh về giáo dục khoa học. Các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc đều đặt GD lên đầu, và đặt đúng tầm vóc vị trí của nó. Ở VN mặc dù có chú trọng đến GD, nhưng xem ra con người Việt Nam thích "ăn thua đủ" nhiều hơn là ham thích việc học hành thực sự.
 
Nói một cách khác, cần đặt lại vấn đề là người VN đã từng có một nền khoa học chưa, hay chỉ là ảo tưởng của các cụ ngày xưa.
Văn hóa, bản chất con người VN có phù hợp với công việc làm khoa học hay không? Không phải ngẫu nhiên mà thế giới có sự phân hóa rõ rệt: đa phần vận động viên, ca sĩ là da đen, đa phần nhà khoa học là Do Thái, Da trắng hoặc Đông Á. Các nước Philipine, Indonesia, Thái Lan dù kinh tế khá nhưng chưa bao giờ là những nước mạnh về giáo dục khoa học. Các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc đều đặt GD lên đầu, và đặt đúng tầm vóc vị trí của nó. Ở VN mặc dù có chú trọng đến GD, nhưng xem ra con người Việt Nam thích "ăn thua đủ" nhiều hơn là ham thích việc học hành thực sự.
khá chí lý,
híc vietnam nằm đầu của đông nam á và đít của đông á, có lẽ sẽ ảnh hưởng tính chất của cả 2 vùng..????
có lẽ chúng ta chịu khó nhìn nhận lại mình để mà phát triển, chứ lúc nào cũng..tự sướng thế này thì làm sao tiến bộ được và dường như bản chất người Viết là rất dẽ ..thỏa mãn. phải biết mình đang ở đâu và hay nói như các đảng viên là phải phê bình và tự phê bình, đừng có ngồi khen nhau, thi hy vọng chúng ta sẽ bắt kịp các nước trong khu vực như philipin, indo , malay, thai lan trong thời gian không quá lâu ! chứ cữ nghĩ mình gần bằng Hàn hay bằng Đài rồi là....chết mất thôi !
 
Xem bài phân tích của chuyên gia Harvard thì trừ phi Việt Nam thay đổi...thể chế chính trị :ohoặc một cái gì tương tự mới hy vọng có bộ mặt GD sáng sủa.
http://tuanvietnam.net/vn/harvard/7962/index.aspx
lúc nào còng tồn tái những điều luật như cái Quyết định 97 quái gở của ông Dũng trong tháng trước thì lúc đấy KH còn khó để phát triển và như vậy Uni đẳng cấp chắn cũng có trong trí tưởng tướng!
đây là 1 vd, IDS là viện mới thành lập, không thuộc nhà nước có lẽ ai cũng biết !
Giải tán IDS

Huy Đức

Đọc kỹ các văn kiện liên quan đến việc giải thể của viện IDS mới thấy, đó là một quyết định của những người có lòng tự trọng và dũng cảm. Nhìn vào danh sách những người ký tên vào bản tuyên bố, thấy, hầu hết trong số họ là những nhân vật từ lâu đã nhận được sự kính trọng của xã hội. Danh lợi không phải là điều họ hướng tới, vậy thì một khi những ý kiến phản biện tâm huyết của họ không còn được lắng nghe nữa, họ giữ cái viện ấy làm gì. Trước IDS, từ đầu năm 2009, các học giả Harvard và Chương trình Fulbright cũng đã thôi cống hiến cho Chính phủ những bản báo cáo hàng quý hết sức giá trị về tình hình kinh tế.
Những người có quyền lực có thể sẽ thở phào nhẹ nhõm; các bậc trưởng thượng như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Trần Đức Nguyên, Việt Phương… có thể sẽ có nhiều thời gian hoàn thành những công việc dở dang. Vấn đề là người dân. Cũng là ruộng đồng Việt Nam, cũng cái cày con trâu, chỉ vì chính sách đúng hay sai mà người dân có khi đói tới mức phải đi ăn xin; có khi làm ra hàng chục triệu tấn gạo xuất đi các nước. Hiện tại cũng như trong quá khứ, những sai lầm đau đớn nhất về mặt chính sách thường do trước khi ban hành, chúng không được đưa ra thảo luận và công khai phản biện.
Những chính sách dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội không chỉ là chuyện lịch sử. Năm 2007, từ quý II, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những dấu hiệu bất ổn vĩ mô. Một vài thành viên trong Ban Nghiên Cứu của Thủ tướng cũ (bị giải thể ngày 28-7-2006 theo quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) khuyến cáo: “Nếu tiếp tục chạy theo mục tiêu tăng trưởng GDP thì sẽ không tránh khỏi lạm phát”. Ngay lập tức, họ nhận được sự than phiền: “Sao tình hình đang tốt mà có người cứ phá”. Báo chí tạm thời im lặng. Các nhà nghiên cứu chọn con đường phản biện trong “hệ thống”. Không rõ các cảnh báo sớm ấy đã được xem xét thế nào mà nửa cuối 2007, đầu tư vẫn ồ ạt, tăng trưởng tín dụng từ 21,4% trong năm 2006 vọt lên 38,7%. Những chỉ số GDP của 2007 đương nhiên là lấp lánh…
Ngay từ tháng 1-2008, lạm phát đã bộc lộ, “tình hình không tốt” như một số người từng nghĩ nhưng “khối u” chưa phải là “ác tính”. Tuy nhiên, liều thuốc chống lạm phát “bốc” ngay đã gây ra cho nền kinh tế một cú “shock”: dự trữ bắt buộc tăng, trong tháng 1-2008, các ngân hàng thương mại phải thu về hơn 20.000 tỷ đồng; ngày 13-2, các ngân hàng lại phải mua một lượng tín phiếu bắt buộc trị giá 20.300 tỷ đồng… lãi suất qua đêm ở thị trường liên ngân hàng tăng từ 6,52% vọt lên 27%, có lúc lên tới 40%; thanh khoản đột ngột thiếu hụt. Thị trường địa ốc ngay lập tức đóng băng. Chỉ số chứng khoán rơi tự do, VN-index đang trên 1000, tới ngày 26-3-2008 tụt xuống còn 500. Nhưng, những ảnh hưởng gián tiếp mới thực sự làm kiệt quệ nền kinh tế: trong năm 2008, phần lớn các doanh nghiệp cần vốn sản xuất kinh doanh phải vay với lãi suất lên tới 25%, xuất nhập khẩu thì thiếu ngoại tệ, sản xuất thì thiếu vốn…
Cho dù hậu quả không được thảo luận công khai thì người dân cũng biết nền kinh tế Việt Nam “xuống tận đáy” năm 2008 chẳng phải vì các “nguyên nhân quốc tế”. Mãi tới tháng 9-2008, khủng hoảng kinh tế thế giới mới bộc lộ và phải đến cuối quý IV-2008, xuất khẩu mới giảm nhẹ, dấu hiệu cho thấy Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu. Đến lúc ấy thì nền kinh tế Việt Nam đã kiệt quệ do phản ứng phụ của “thuốc” chống lạm phát. Ngày 24-2-2009, chứng khoán rơi tự do xuống tới con số xấu kỷ lục: VN-index chỉ còn 235.
Sau những biến cố ấy, lẽ ra “phản biện” công khai phải trở thành quy trình bắt buộc khi ban hành chính sách thì Quyết định 97 lại ra đời. Quyết định 97 không những giới hạn “lĩnh vực” các viện nghiên cứu tư nhân được hoạt động mà “nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách” thì phải “gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền”; cấm “công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức”. Trong một bài phỏng vấn trên Vietnamnet, Thứ trưởng Bộ Khoa học Nguyễn Quân giải thích: “Trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế đầy khó khăn thử thách, chúng ta đang cần có sự đồng thuận cao của xã hội đối với các quyết sách… nên công bố các kết quả nghiên cứu phản biện… phải hết sức thận trọng”.
Hiểu về đồng thuận như ông thứ trưởng Nguyễn Quân rõ ràng là phi khoa học. Một chính sách không thể nào tìm được sự đồng thuận nếu những khác biệt không được đưa ra tranh luận công khai. Kể cả việc tranh luận có thể chỉ ra những sai lầm của Chính phủ. Người dân không bao giờ hy vọng có một chính phủ không phạm sai lầm; nhưng người dân có quyền đòi hỏi chính phủ của họ phải biết lắng nghe để khắc phục những sai lầm ấy. công khai bàn luận còn để đảm bảo một chính sách khi được đưa ra là nhằm phục vụ lợi ích quốc gia thay vì chỉ phục vụ những nhóm đặc quyền, đặc lợi (tôi không dùng “nhóm lợi ích” vì ở Việt Nam, lobby không giống như các nước). Chưa kể, Quyết định 97 nếu tồn tại sẽ để lại hậu quả lâu dài thay vì chỉ nhắm tới IDS hay chỉ phục vụ cho “bối cảnh xã hội” mà hiện thời ông thứ trưởng cho là “phức tạp”.
Quyết định 97 là một ví dụ đắt giá cho thấy, một khi quy trình ban hành không được phản biện công khai thì chính sách đưa ra không những bất ổn về mặt pháp lý mà còn chứa đựng không ít rủi ro. Có thể nói là những người tham mưu Quyết định này đã không tiên liệu được những tổn thất về uy tín chính trị có thể xảy ra cho người ký.
Trí thức là một tầng lớp có tiếng nói độc lập trong xã hội thay vì là những người giúp việc có bằng cao học hay tiến sỹ. Khoa học và chính trị là hai lĩnh vực khác nhau. Một chính khách tự tin sẽ nhận thấy, không phải những lời xưng tụng mà chính là các chỉ trích mới làm cho mình đúng hơn và lớn lên. Thực ra, những đóng góp của IDS và những bản báo cáo của nhóm học giả Harvard và Chương trình Fulbright chỉ là những công việc khởi đầu, đem lại cho dân chúng hy vọng, phản biện xã hội có thể có vai trò và trí tuệ có thể tiếp cận được các nhà ban hành chính sách.
Tuyên bố tự giải tán IDS là một việc làm mới mẻ của những người trí thức. Từ nay sẽ không còn tiếng nói nhân danh IDS; nhưng, đôi khi, im lặng tưởng “đóng” thực ra lại là sự bắt đầu. Nhất là khi, “lên tiếng” trở thành nỗi khát khao của người dân, của những người không thờ ơ với nội tình đất nước.
H. Đ.
 
ĐH đẳng cấp quốc tế Việt - Đức hạ điểm chuẩn

Cập nhật lúc 11:02, Thứ Tư, 09/09/2009 (GMT+7)
,

ĐH Việt Đức (VGU) mới tiếp nhận được 20 hồ sơ, trong khi trường có đến 50 chỉ tiêu ngành Kỹ thuật điện và Công nghệ thông tin trong năm học 2009 - 2010.
images1855066_vd.JPG
Thầy trò trường ĐH Việt - Đức. Nguồn: website VGU Theo kế hoạch, trường sẽ kết thúc nhận hồ sơ xét tuyển vào ngày 10/9. Mới đây, trường cũng công bố xét tuyển NV2 với mức điểm nhận hồ sơ là 17.

Đồng thời, ĐH Việt Đức cũng quyết định hạ mức điểm chuẩn trúng tuyển năm học 2009 - 2010 xuống 20, thay vì 21 điểm như đã thông báo.

Theo bà Nguyễn Hồng Dung, Văn phòng Hiệu trưởng Trường ĐH Việt Đức, dù là trường đẳng cấp quốc tế nhưng do không tuyển sinh được, nên ĐH này buộc phải hạ điểm chuẩn. Thậm chí, nhiều khả năng điểm chuẩn sẽ giảm xuống còn 19 sau khi kết thúc nhận hồ sơ.

Năm 2008, trường chỉ tuyển được 39 sinh viên trong tổng số 50 hồ sơ đăng ký (trong khi trường có 80 chỉ tiêu ngành Kỹ thuật điện và Công nghệ thông tin).

Không chỉ gặp khó trong tuyển sinh, ĐH Việt - Đức cũng đang đối diện với nhiều khó khăn khác. Sau năm thứ nhất, số sinh viên của trường “rụng” dần, chỉ còn 29 em.

Lý giải vấn đề này, bộ phận phụ trách thông tin của ĐH Việt - Đức cho biết, số lượng sinh viên bỏ học phần lớn do không đáp ứng được trình độ Anh văn. Học yếu, không theo kịp chương trình đại cương nên các em bỏ học rải rác từ cuối học kỳ 1 cho đến nay. Mặt khác, theo quy định của nhà trường, sinh viên nào không đạt chứng chỉ IELTS 6.0 sau một năm, sẽ phải đóng học phí học lại.

Vấn đề khó khăn nhất hiện nay của ĐH Việt - Đức là tuyển sinh và kinh phí hoạt động. Thực tế, ĐH Việt - Đức được chính phủ hai nước Việt Nam và Đức hỗ trợ đến 70% học phí. Tuy nhiên, mức đóng 1.500 USD một năm học tương đối cao so với học phí của các trường công lập khác ở tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, chương trình học liên tục, sinh viên không có thời gian nghỉ hè vì phải "cày" tiếng Anh.

Tuy điều kiện dự tuyển là thí sinh phải có trình độ ngoại ngữ đạt một trong các điều kiện sau: TOEFL từ 450, IELTS từ 4.0, chứng chỉ B Anh văn, hoặc đã học Anh văn ít nhất 7 năm ở bậc trung học… nhưng thực tế mặt bằng trình độ tiếng Anh của các em không đều, nhiều người chưa đạt yêu cầu xét tuyển.

"Điều quan trọng hiện giờ là làm thế nào để quảng bá hiệu quả, để học sinh và phụ huynh biết nhiều về trường, có như vậy mới có thể tuyển sinh tốt được”, bà Dung nói.



Xem ra con đường tiến tới đại học quốc tế của VN còn gian nan lắm. Bởi ngoài tiền nhiều, thầy giỏi ra, liệu cấp phổ thông trung học của Vn đã đào tạo được học sinh đủ trình độ học các trường ĐH quốc tế hay chưa?


Chắc là các cụ lại sẽ bàn xây dựng trường cấp I, cấp II và cấp III quốc tế trong thời gian không xa.
 
đoạn kết của bài báo cũng như thực tế của đại học việt đức là một điều gì đó cần thiết cho bọ trưưởng Nhân xem xét lại vấn đề.
chúng ta cứ lo chạy đua xây nhiều trường dh đẳng cấp quốc tế, nhưng liệu có đủ học sinh đủ ngoại nhữ cũng như trình độ vào các trường dh đó học không
ông Riedl bảo bóng đá vn xây nhà từ nóc, câu này có vẻ phù hợp với chính sách giáo dục của bộ trưởng nhân hiện nay
với tư tưởng vài dh đẳng cấp có vể như cũng hơi sính thành tích và có lẽ từng đấy cũng chưa đủ để đất nước có đủ nguồn nhân lực từ phổ thông cho đến cao cấp để thúc đẩy sự phất triển của đất nước.
theo ý tui thì có lẽ quan trọng nhất hiện này là nên tập trung tối đa để nâng cao chất lượng giáo giục từ tiểu học lênn cấp 3, vì không phải ai cũng có thể , cũng muốn vào đại học. vì vậy nhưng người không vào đại học thì cũng là luôn nhân lực quan trọng. khi được chuẩn bị tốt thì dù có học ghề, lao đọng phổ thông nhưng trình độ tốt hơn ở phổ thông thì cũng sẽ giúp cho sự phát triển kinh tế là rất lớn , bên cạnh đó phát triển mạng lưới dạy nghề chất lượng cũng không hề kém quan trọng như giáo dục đh, cứ nhìn gương các nước phát triển là thấy ngay
ôi hới suốt ngày cứ lo cái nóc nhà , cột với tường thì mục nát gần hết...
 
GS Kim Oanh: Giáo dục đại học Việt Nam vẫn chưa sáng sủa
Huy Phương
24/09/2009

Nhân dịp có tin một hiệu trưởng của một trường Trung Học Phổ Thông trong tỉnh Hà Giang cùng 2 cựu học sinh đã nhìn nhận hành vi mua dâm và môi giới mại dâm ban Việt ngữ VOA xin trình bày cùng quý vị một tài liệu của 2 chuyên viên Mỹ nói về hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam, và nhận xét của một chuyên viên giáo dục ở California.

gs-kim-oanh-210.jpg
Giáo sư Nguyễn Lâm Kim Oanh
Tài liệu mà chúng tôi định trình bày có tựa là “Hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam: khủng hoảng và đối phó” do hai chuyên viên ban châu Á của Ash Institute, thuộc trường đại học Harvard soạn thảo sau khi đến Việt Nam làm việc, nghiên cứu và giảng dạy một thời gian.

Trong tài liệu này, trước nhất, 2 ông Thomas J. Vallely và Ben Wilkinson chỉ ra mức độ của cuộc khủng hoảng giáo dục đại học và đi tìm các nguyên nhân cội nguồn của chúng. Sau đó 2 ông xem giới hữu trách đã đối phó với cuộc khủng hoảng này như thế nào. Cuối cùng họ kết luận rằng cần phải có những cải cách có tính cách định chế nếu muốn đối phó với cuộc khủng hoảng một cách hiệu quả. Phần cuối của tài liệu có kèm một bài viết của giáo sư Hoàng Tụy, một nhà khoa học nổi tiếng của Việt Nam.

Một trong những người có theo dõi tài liệu này là giáo sư Nguyễn Lâm Kim Oanh, Ủy viên Giáo dục Học khu Garden Grove, thành viên Ủy ban Cố vấn Giáo dục tiểu bang California.

Giáo sư Kim Oanh cho biết: “Các tác giả đưa ra một vài dữ kiện để cho chúng ta thấy rằng hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay đang trên đà suy thoái, suy thoái đây có nghĩa là trong số các quốc gia châu Á lân cận đang cố gắng có những thay đổi giúp cho sinh viên có bằng cấp, có kiến thức, thì hệ thống đại học Việt Nam gần như là dậm chân tại chỗ."

Một ví dụ điển hình là trong một cuộc tổng kết các bài nghiên cứu đại học, các bài tham luận cùng cấp đại học được công bố vào năm 2007, người ta thấy Nam Triều Tiên có 5.060 bài, Singapore có 3.590 bài, Thái Lan có 1.750 bài, trong khi Việt Nam chỉ có 96 bài.

Một ví dụ khác là trong một cuộc tổng kết các bằng phát minh trong năm 2006, Nam Triều Tiên có 102.633 bằng phát minh, Singapore có 995 bằng, Thái Lan có 158 bằng, nhưng Việt Nam không có bằng nào.

Hai chuyên viên Vallely và Wilkinson của trường đại học Harvard cho rằng có nhiều nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng này.

Thứ nhất là do lịch sử, trong đó có những cuộc chiến tranh kéo dài. Thứ hai là do cách quản lý của chính quyền, trong đó đại học chưa có quyền tự trị, bằng cấp có thể mua bán, xa lạ với những tiêu chuẩn đại học quốc tế, các công trình nghiên cứu được tài trợ cho những người quen biết hơn là những người có khả năng thực sự, số người có điều kiện du học rất ít, những người thành tài không chịu trở về, và nhất là Internet bị hạn chế trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin.

Giáo sư Kim Oanh nói rằng trong tài liệu phân tích này, các tác giả thừa nhận là chính quyền Việt Nam cũng có đưa ra một số biện pháp, ví dụ Nghị quyết 14 và kế hoạch tạo điều kiện để có nhiều sinh viên du học.

Giáo sư Kim Oanh cho biết: “Nghị quyết 14 Cải cách Toàn diện Giáo dục Đại học, đề ra chỉ tiêu đến năm 2020 phải có một số giáo sư được đào tạo cấp cao học hay tiến sĩ. Nhưng khi đưa ra dự án đó, họ không nói làm thế nào để thay đổi cách quản lý điều hành trường đại học. Nếu vẫn tiếp tục hệ thống trung ương tập quyền thì không thay đổi được.

Thứ hai là họ có chương trình đẩy mạnh số sinh viên du học ngoại quốc, số đó bắt đầu tăng từ 1986, qua các chương trình học bổng của Fulbright và World Bank. Một số gia đình khá giả có phương tiện gửi con đi du học. Mặc dù bây giờ Việt Nam được liệt kê trong số 20 quốc gia hàng đầu có sinh viên du học tại Hoa Kỳ, nhưng so với số sinh viên toàn quốc, số này rất là nhỏ.

Khoảng cách giàu nghèo tại Việt Nam càng ngày càng lớn, do đó số người có cơ hội du học rất nhỏ, không giải quyết được vấn đề đào tạo sinh viên. Tóm lại, hai chính sách được đưa ra có ảnh hưởng rất ít."


Qua kinh nghiệm huấn luyện giáo chức từ hơn 20 năm qua và bây giờ còn phụ trách điều hành Chương trình Ngôn ngữ Chiến lược cho Hệ thống Đại học California, giáo sư Kim Oanh đưa ra nhận xét cá nhân về hệ thống đại học Việt Nam hiện nay.

Giáo sư Kim Oanh nói: “Tôi chưa thấy một viễn tượng gì sáng sủa hết, tại vì chính ngay những người trong nước, ngoài giáo sư Hoàng Tụy còn có những người trong hệ thống giáo dục đại học ở Hà Nội và Sài Gòn đã bắt đầu lên tiếng, viết những bài nhận định rất rõ ràng. Họ biết những gì cần làm, những gì cần thay đổi, các đề nghị rất cụ thể, chúng tôi đọc vào chúng tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng cho tới bây giờ chính quyền Hà Nội, những người có thực sự có thẩm quyền để thay đổi vẫn chưa áp dụng những cái đó.

Do đó, theo nhận định giới hạn của tôi, tôi thấy viễn tượng tương lai của thế hệ trẻ, của sinh viên Việt Nam chưa sáng sủa; mặc dù tôi biết có rất nhiều sinh viên có khả năng, có tiềm năng rất cao, có những suy nghĩ, có những nghiên cứu muốn đeo đuổi về toán học, khoa học; nhưng họ chưa có môi trường và chính phủ hiện nay chưa tạo môi trường cho họ. Do đó, khi nhìn vấn đề này thì tôi thấy rất bi quan."
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,917
Latest member
sv368net
Back
Top