Nobel Sinh lý học và Y học 2007

Thông cáo báo chí

16 giờ 30, ngày 8-10-2007

Hội đồng xét giải Nobel tại viện Karolinska Thụy Điển hôm nay quyết định trao giải Nobel sinh lý học hay y học 2007 cho

Mario R. Capecchi, Martin J. Evans và Oliver Smithies

cho công khám phá ra "những nguyên lí chuyển gene biến đổi đặc hiệu ở chuột bằng cách sử dụng các tế bào gốc phôi".

Tóm tắt

Những người đoạt giải Nobel năm nay đã thực hiện một loạt các khám phá nền tảng liên quan tới tế bào gốc phôi và tái tổ hợp DNA ở động vật có vú. Những khám phá của họ đã dẫn đến sự tạo ra một kĩ thuật hoàn hảo tuyệt vời được tham khảo như gene mục tiêu ở chuột gene targeting in mice. Hiện tại nó đang được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của y sinh học - từ nghiên cứu cơ bản đến sự phát triển các liệu pháp.

Gene mục tiêu thường được sử dụng để làm bất hoạt một gene đơn lẻ. Những thí nghiệm gene "xuất sắc" như thế đã và đang giải thích vai trò của số lớn các gene trong quá trình phát triển phôi, sinh lý người trưởng thành, tuổi tác và bệnh tật. Đến hôm nay, đã có trên mười ngàn gene chuột (xấp xỉ một nửa số gene trong hệ gene động vật có vú) đã được chinh phục. Những nỗ lực quốc tế hiện nay sẽ thực hiện "chinh phục chuột" đối với tất cả các gene có thể hiện hữu trong một tương lai gần.

Với gene mục tiêu, hiện nay người ta có thể tạo ra hầu hết loại biến đổi DNA nào ở hệ gene chuột, cho phép các nhà khoa học thiết lập vai trò của từng gene riêng lẻ đối với bệnh tật và sức khỏe. Người ta vừa tạo ra hơn 500 mô hình khác nhau về chuột mang các dị tật của người, bao gồm chứng thoái hóa thần kinh,tim mạch, tiểu đường và ung thư.

http://nobelprize.org/nobel_prizes/medicine/laureates/2007/press.html
 
Anh cố gắng sửa lại phần tóm tắt theo ý hiểu của anh trên VLOS. Em tham khảo và sửa lại bài này.
 
Nobel Y học 2007 tôn vinh nghiên cứu tế bào gốc
16:46' 08/10/2007 (GMT+7)
Hôm nay (8/10), mùa giải Nobel 2007 chính thức mở màn với việc tuyên bố giải Nobel Y học thuộc về ba nhà nghiên cứu Anh, Mỹ và Italia. Đây là giải thưởng đầu tiên trong số sáu giải thưởng danh giá sẽ được tuyên bố bởi các uỷ ban Nobel từ nay cho tới ngày 15/10.


TS Mario R. Capecchi, TS Martin J. Evans, TS Oliver Smithies

Ba nhà khoa học Mario R. Capecchi (Italia), Martin J. Evans (Anh) và Oliver Smithies (Mỹ) đã có một loạt khám phá mang tính đột phá về tế bào gốc phôi thai và ADN. Những nghiên cứu của họ đã mở đường cho một loại công nghệ mạnh nhằm điều khiển gien ở chuột - nhắm bắn gien ở chuột.

Công nghệ cực mạnh này hiện đang được áp dụng cho hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu y sinh, từ nghiên cứu cơ bản tới việc phát triển các liệu pháp chữa trị mới.

Nhắm bắn gien thường được sử dụng để vô hiệu hoá các gien đơn nhất. Các thí nghiệm ’’khử gien’’ như vậy đã làm sáng tỏ vai trò của vô số gien trong giai đoạn phôi thai, lão hoá, bệnh tật và sinh lý học ở người trưởng thành. Cho tới nay, hơn 10.000 gien chuột (khoảng 50% số gien ở loài động vật này) đã bị vô hiệu hoá. Cộng đồng khoa học quốc tế sẽ tiếp tục vô hiệu hoá số gien còn lại trong tương lai gần.

Với công nghệ bắn gien, hiện các nhà khoa học có thể biến đổi ADN trong bộ gien chuột, giúp họ xác định được vai trò của các gien đơn nhất liên quan tới bệnh tật và sức khoẻ. Nhắm bắn gien đã tạo ra hơn 500 các chứng rối loạn khác nhau của người trên chuột, gồm bệnh tim mạch, suy thoái thần kinh, tiểu đường và ung thư.

Công nghệ nhắm bắn gien đã giúp con người hiểu được vai trò của hàng trăm gien trong giai đoạn phát triển của bào thai động vật có vú. Nghiên cứu của Capecchis đã phát hiện vai trò của các gien liên quan tới sự phát triển nội tạng và cấu trúc cơ thể. Ông đã làm sáng tỏ các nguyên nhân của nhiều dạng dị tật bẩm sinh ở người.

Evans đã áp dụng công nghệ này để phát triển các mô hình bệnh tật của người trên chuột, gồm bệnh xơ nạng tuỵ tạng di truyền. Ông đã sử dụng các mô hình này để nghiên cứu các cơ chế bệnh tật và thử nghiệm tác dụng của liệu pháp gien.

Smithies cũng sử dụng công nghệ nhắm bắn gien để phát triển các mô hình bệnh di truyền của người trên chuột, chẳng hạn như xơ nang tuỵ tạng và bệnh thiếu máu vùng biển. Ông còn phát triển vô số các mô hình bệnh phổ biến của người trên chuột chẳng hạn như chứng xơ vữa động mạnh và tăng huyết áp.

Tóm lại, công nghệ nhắm bắn gien ở chuột đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực y sinh. Tác động của nó đối với việc hiểu chức năng của các gien và lợi ích của nó đối với nhân loại sẽ tiếp tục gia tăng trong nhiều năm tới.

Giải thưởng Y học năm nay trị giá 1,54 triệu USD.

Năm ngoái, giải Nobel Y học thuộc về hai nhà khoa học Mỹ - Andrew Z. Fire và Craig C. Mello, những người đã khám phá ra cơ chế can thiệp RNA - một tiến trình có thể làm câm lặng các gien xác định.

T.S Mario R. Capecchi sinh năm 1937 tại Italia và là công dân Mỹ. Ông tốt nghiệp tiến sĩ về vật lý sinh học tại ĐH Havard năm 1967. Ông hiện là Giáo sư danh dự về gien người và sinh học tại ĐH Utah, Mỹ.
TS. Martin J. Evans, sinh năm 1941 ở Anh, và hiện là công dân Anh. Ông có bằng tiến sĩ về giải phẫu và phôi thai học năm 1969 tại Anh. Hiện ông là Hiệu trưởng Trường sinh học và là GS về gien thú có vú, ĐH Cardiff, Anh.

TS Oliver Smithies, sinh năm 1921 tại Mỹ, tốt nghiệp tiến sĩ hoá sinh năm 1951 tại ĐH Oxford, Anh. Ông hiện là Giáo sư ưu tú về bệnh học, ĐH Bắc Carolina, Mỹ.


Minh Sơn (tổng hợp)

http://vietnamnet.vn/thegioi/2007/10/748257/
 
Thứ Hai, 08/10/2007, 18:39 (GMT+7)

Ba nhà khoa học Anh - Mỹ thắng Giải Nobel Y học


Nhà khoa học Oliver Smithies (phải) và nhà khoa học Martin Evans
TTO - Ba nhà khoa học: Mario Capecchi và Oliver Smithies (Mỹ) và Martin Evans (Anh) đã giành Giải Nobel Y học 2007, kết quả vừa được công bố hôm nay (8-10).

Theo Hội đồng xét giải Nobel, các nhà khoa học trên được vinh danh nhờ phát hiện ra cách thức điều khiển về mặt di truyền tế bào mầm phôi thai chuột, mở đường cho việc tạo ra chuột trong phòng thí nghiệm mang các bệnh của người, phục vụ cho các công trình nghiên cứu y sinh học.

“Khám phá mang tính đột phá này liên quan đến tế bào mầm phôi thai và sự tái tổ hợp ADN ở động vật có vú… dẫn tới việc tạo ra một kỹ thuật trong nghiên cứu y sinh có ảnh hưởng rất lớn”, Hội đồng xét giải Nobel nói.

Kỹ thuật này được gọi là kỹ thuật tiếp cận gene, thường được gọi là "khuất phục gene". Nó cung cấp cho các nhà khoa học một mô hình thí nghiệm giúp họ khám phá nguồn gốc các căn bệnh từ Alzheimer cho đến ung thư và có thể giúp tạo ra những loại thuốc mới điều trị hiệu quả hơn các căn bệnh này.


Nhà khoa học Mario Capecchi
Capecchi sinh năm 1937 tại Ý, là một giáo sư sinh vật học và di truyền học ở người, công tác tại ĐH Utah, Mỹ. Smithies sinh 1925 tại Anh, là giáo sư nghiên cứu bệnh tật công tác tại ĐH North Carolina, Mỹ. Evans sinh năm 1941 tại Anh, là giáo sư di truyền học về động vật có vú tại ĐH Cardiff ở Anh.

Năm ngoái, Giải Nobel Y học được trao cho hai nhà khoa học Mỹ Andrew Fire và Craig Mello nhờ phát hiện cách thức vô hiệu hóa các gene sai chức năng, một bước đột phá có thể mở ra một kỷ nguyên của các phương pháp trị liệu mới giúp chống lại các bệnh gây tàn tật.

Giải Nobel Y học là giải Nobel đầu tiên được công bố trong mùa giải năm nay. Giải Noble Vật lý sẽ được công bố vào ngày mai (9-10), sau đó là Giải Noble Hóa học (ngày 10-10), Giải Nobel văn học (11-10) và Nobel Hòa bình (12-10). Riêng Giải Nobel Kinh tế phải đến ngày 15-10 mới được thông báo.

TƯỜNG VY (Theo AFP)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=223376&ChannelID=2
 
Ôi thuật ngữ Sinh học phân tử !

Thông cáo báo chí

16 giờ 30, ngày 8-10-2007

Hội đồng xét giải Nobel tại viện Karolinska Thụy Điển hôm nay quyết định trao giải Nobel Sinh lý học và Y học 2007 cho

Mario R. Capecchi, Martin J. Evans và Oliver Smithies

về những khám phá ra "nguyên lí tạo biến đổi gene đặc hiệu ở chuột bằng cách sử dụng các tế bào nguồn tạo phôi" (principles for introducing specific gene modifications in mice by the use of embryonic stem cells).

Tóm tắt

Những người đoạt giải Nobel năm nay đã thực hiện một loạt các khám phá nền tảng liên quan tới tế bào nguồn tạo phôi (ES cells) và tái tổ hợp DNA ở động vật có vú. Những khám phá của họ đã tạo ra một kĩ thuật ưu việt được gọi là "định hướng gene" (gene targeting) ở chuột. Hiện tại nó đang được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của y sinh học - từ nghiên cứu cơ bản đến sự phát triển các liệu pháp mới.

Định hướng gene thường được sử dụng để làm bất hoạt một gene đơn lẻ. Những thí nghiệm "bất hoạt" (knockout") gene như thế đã và đang giải thích vai trò của số lớn các gene trong quá trình phát triển phôi, sinh lý phát triển, lão hóa và bệnh tật. Đến hôm nay, trên mười ngàn gene chuột (xấp xỉ một nửa số gene trong hệ gene động vật có vú) đã có thể bị bất hoạt. Những nỗ lực quốc tế nhằm tạo ra ngân hàng chuột bị "bất hoạt" với tất cả các gene có thể trở thành hiện thực trong một tương lai gần.

Bằng phương pháp định hướng gene, hiện nay người ta có thể tạo ra hầu hết các loại biến đổi DNA ở hệ gene chuột, điều này cho phép các nhà khoa học xác định vai trò của từng gene riêng lẻ đối với bệnh tật và sức khỏe. Định hướng gene đã tạo ra hơn 500 mô hình khác nhau trên chuột mang các dị tật của người, bao gồm chứng thoái hóa thần kinh, tim mạch, tiểu đường và ung thư.


http://thuvienkhoahoc.com/tusach/Giải_Nobel_sinh_lý_học_và_y_học_năm_2007
 
9h 9-10-2007, bản dịch của Vietnamnet đã biến mất
Sau đây là bản dịch mới của Tuổi trẻ
Thứ Ba, 09/10/2007, 06:18 (GMT+7)

Công nghệ gen giành giải Nobel y học

TT - Những chủ nhân đầu tiên của giải thưởng Nobel mùa giải 2007 đã được công bố vào lúc 16g30 ngày 8-10 (giờ VN) tại Viện Karolinska ở Stockholm, Thụy Điển. Giải Nobel trong lĩnh vực y học và sinh lý học năm nay thuộc về nhóm ba nhà khoa học với công trình nghiên cứu công nghệ gen.


Mario Capecchi Oliver Smithies Martin Evans


Họ là Mario Capecchi (người Mỹ gốc Ý), Martin Evans (người Anh) và Oliver Smithies (người Mỹ gốc Anh). Công nghệ gen được ba nhà khoa học ứng dụng để biến đổi hoặc tắt chức năng một số gen ở chuột. Nhờ đó, họ có thể nghiên cứu ảnh hưởng của những gen này đến sức khỏe và bệnh tật. Đầu tiên họ làm biến đổi gen trong tế bào mầm của chuột, sau đó cấy những tế bào này vào phôi chuột. Những con chuột sinh ra từ phôi này được lai giống với những con chuột khác để tạo ra giống chuột có gen bị biến đổi.

Con chuột đầu tiên được biến đổi gen ra đời năm 1989. Từ đó đến nay, công nghệ này đã giúp các nhà khoa học nghiên cứu hơn 10.000 gen khác nhau ở loài chuột, tức là một nửa số gen của loài gặm nhấm. Công nghệ này đã được ứng dụng trong nghiên cứu các chứng bệnh như xơ nang, bệnh tim, tiểu đường và ung thư. Ủy ban bầu chọn Nobel nhấn mạnh: "Tác động của công nghệ này trong việc giúp chúng ta hiểu rõ về chức năng của gen, cũng như lợi ích của nó với nhân loại, sẽ còn tiếp tục tăng trong nhiều năm tới".

Ba nhà khoa học sẽ chia nhau giải thưởng trị giá 1,54 triệu USD. Nhận được tin đoạt giải, ông Mario Capecchi không giấu nỗi vui mừng: "Đây là một tin tuyệt vời với sự trân trọng dành cho phòng thí nghiệm cũng như trường đại học của chúng tôi". Vị giáo sư 70 tuổi này cho biết ông sẽ trích một phần giải thưởng cho công trình nghiên cứu về bệnh ung thư ở trẻ em.

Bất ngờ cũng là phản ứng đầu tiên của ông Martin Evans, 66 tuổi và Oliver Smithies, 82 tuổi. Smithies cho biết ông hi vọng giải thưởng này sẽ giúp đảm bảo nguồn vốn cho các công trình nghiên cứu khác.

Theo trang web chính thức của giải Nobel http://nobelprize.org, qui trình đề cử Nobel được thực hiện bằng cách mỗi năm các ủy viên Ủy ban Nobel gửi thư mời cá nhân đến hàng nghìn người để yêu cầu đề nghị ứng cử viên cho mùa giải năm sau. Những người đề cử là học giả, giáo sư đại học, nhà khoa học ở nhiều nước, những người từng đoạt giải Nobel, nghị sĩ quốc hội và một số cá nhân khác. Họ được lựa chọn sao cho ngày càng có nhiều người đến từ nhiều quốc gia và trường đại học trên thế giới tham gia đề cử. Hôm nay 9-10 có giải vật lý

Theo kế hoạch, giải Nobel vật lý sẽ được công bố hôm nay (9-10), tiếp theo là giải hóa học (10-10), văn chương (11-10), hòa bình (12-10) và cuối cùng là giải kinh tế (15-10). Hai lĩnh vực được phỏng đoán nhiều nhất là văn chương và hòa bình. Với giải văn chương, theo AFP, dẫn đầu danh sách dự đoán năm nay là tiểu thuyết gia người Ý Claudio Magris, nhà thơ người Úc Les Murray và tác giả người Mỹ Philip Roth.

Với giải Nobel hòa bình, theo AFP, có đến 181 cá nhân và tổ chức được đề cử. Sự chú ý đang đổ dồn về những nhân vật hoạt động tích cực trong cuộc chiến chống hiện tượng Trái đất ấm dần. Cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore và Sheila Watt-Cloutier, người Canada, cựu chủ tịch hội thảo Inuit Circumpolar, đang là những gương mặt sáng giá.



THANH TRÚC
---------------------------------------------------------------------------

Dich sát nghĩa nghe la hoắc, hơ hơ.
 
Biến đổi gene bằng tái tổ hợp tương đồng

Thông tin hàm chứa chức năng của cơ thể và quá trình phát triển của chúng ta suốt cả đời được chứa trong DNA. DNA của chúng ta được đóng gói trong nhiễm sắc thể, nơi xảy ra sự bắt cặp nhiễm sắc thể - một nhiễm sắc thể nhận từ cha và một nhiễm sắc thể nhận từ mẹ. Thay đổi trình tự DNA trong những kiểu bắt cặp nhiễm sắc thể như thế làm gia tăng biến đổi di truyền trong quần thể, và quá trình diễn ra như vậy gọi là tái tổ hợp tương đồng (homologous recombination). Quá trình này được bảo tồn xuyên suốt tiến hóa và đã được giải thích ở vi khuẩn hơn 50 năm về trước bởi người đoạt giải Nobel 1958 Joshua Lederberg.

Cả Mario Capecchi và Oliver Smithies đã nhận thấy rằng tái tổ hợp tương đồng có thể dùng để sửa đổi một cách đặc hiệu các gene ở tế bào động vật có vú, và trước sau như một công trình của họ đi theo hướng này.

Capecchi giải thích rằng tái tổ hợp tương đồng có thể xảy ra giữa DNA được chuyển vào tế bào động vật có vú và nhiễm sắc thể của tế bào đó. Ông nhận thấy các gene khiếm khuyết có thể được sửa sai bởi sự tái tổ hợp tương đồng với DNA thu được (incoming DNA). Ban đầu Smithies đã thử sửa sai các gene đột biến ở tế bào người. Ông nghĩ rằng các bệnh di truyền về máu chắc chắn có thể được điều trị bằng cách sửa chữa nguyên nhân gây bệnh, các đột biến ở tế bào gốc tủy xương. Với những cố gắng này, Smithies đã khám phá ra các endogenous gene có thể định hướng một cách mãnh liệt hoạt động của chúng. Điều này đề xuất rằng tái tổ hợp tương đồng có thể dễ dàng tạo nên sự thay đổi chút ít (modification = change slightly) tất cả các gene.

Tế bào gốc phôi - phương tiện di truyền dòng tinh trùng chuột

Các loại tế bào ban đầu được Capecchi và Smithies nghiên cứu không thể tạo nên ở động vật các gene có tính định hướng. Điều này đòi hỏi một loại tế bào khác, từ đó đã hướng tới việc sử dụng tế bào giao tử. Chỉ loại tế bào này mới có khả năng di truyền DNA thay đổi chút ít.

Martin Evans đã làm việc với các tế bào phôi thai chuột (EC), mặc dù lấy từ các bướu nhưng chúng có thể biệt hóa thành bất cứ loại tế bào nào. Ông đã nhìn ra nên sử dụng tế bào EC như phương tiện chuyển nguyên liệu di truyền vào trong dòng tinh trùng chuột. Cố gắng của ông ban đầu đả không thành công vì lẽ các tế bào EC mang nhiễm sắc thể bất thường và do đó không thể dựng nên dạng tế bào tinh trùng. Quan sát các biến đổi, Evans đã phát hiện rằng các môi trường nuôi cấy tế bào có nhiễm sắc thể bình thường có thể được trực tiếp thiết lập từ phôi chuột giai đoạn đầu. Những tế bào loại nay hiện nay được tham khảo là tế bào gốc phôi (ES).

Bước nghiên cứu tiếp theo đã cho thấy ES có thể tạo nên dòng tế bào tinh trùng (xem hình). Phôi nhận được từ một chủng chuột đã gây nhiễm với ES từ một chủng chuột khác. Các phôi khảm này (chú thích, chứa đựng tế bào của cả hai chủng) được mang trong một thời kì bởi con mẹ thay thế. Thể khảm đời con sau đó được lai với nhau, và sự hiện diện của tế bào ES - các gene thu được đã phát hiện ở chuột con. Những gene này di truyền theo các định luật Mendel.

Hiện nay Evans đã bắt đầu thay đổi chút ít các tế bào ES về mặt di truyền. Để thực hiện mục đích này ông đã chọn retrovirus, loại virus có thể sát nhập gene của chúng vào trong nhiễm sắc thể. Ông giải thích sự chuyển Retrovirus DNA như vậy từ tế bào ES, thông qua chuột khảm, vào trong dòng tinh trùng chuột. Evans đã sử dung các tế bào ES để truyền khả năng mang nguyên liệu di truyền mới cho chuột.
 
9h 9-10-2007, bản dịch của Vietnamnet đã biến mất
Sau đây là bản dịch mới của Tuổi trẻ
Thứ Ba, 09/10/2007, 06:18 (GMT+7)


THANH TRÚC
---------------------------------------------------------------------------

Dich sát nghĩa nghe la hoắc, hơ hơ.

Báo điện tử chọn giải pháp an toàn, ko đi vào chi tiết công nghệ mà đá gà đá vịt bên ngoài. Phần dịch có đoạn chắc tham khảo BBC tiếng Việt. Khó bảo họ viết sai chỉ biết là viết không đúng.
 
Hai ý tưởng đến cùng nhau - tái tổ hợp tương đồng ở tế bào ES

Vào năm 1986 những nỗ lực nhỏ lẻ đã bắt tay nhau để bắt đầu truyền đạt tế bào ES chứa gene định hướng đầu tiên. Capecchi và Smithies trước đó đã giải thích các gene có thể được định hướng bằng tái tổ hợp tương đồng trong môi trường nuôi cấy tế bào, và Evans đã xây dựng nên phương tiện cần thiết cho dòng tinh trùng chuột - tế bào ES. Bước tiếp theo là kết hợp hai cái lại.

Đối với những thí nghiệm đầu tiên, cả Capecchi và Smithies gene hprt, gene dễ xác định. Gene này có liên quan đến một bệnh di truyền hiếm ở người (hội chứng Lesch-Nyhan). Capecchi đã cải tiến các chiến lược để sử dụng các gene định hướng và phát triển một phương pháp mới (chọn lọc dương tính - âm tính, xem hình) có thể được ứng dụng về mặt di truyền.

Sự sinh sản của chuột bất hoạt - sự bắt đầu của một kỉ nguyên mới trong di truyền học.

Những thông báo đầu tiên trong đó tái tổ hợp tương đồng ở tế bào ES dùng để di truyền gene định hướng ở chuột được công bố 1989. Kể từ đó số thông báo về các chủng chuột bị bất hoạt đã gia tăng có tính định hướng. Định hướng gene đã phát triển thành một kĩ thuật có nhiều ứng dụng cao cấp. Hiện nay đã có thể chuyển các đột biến mà được hoạt hóa tại một số điểm đặc hiệu, hoặc trong tế bào biệt hóa hoặc trong các cơ quan, cả trong suốt quá trình phát triển lẫn động vật có vú trưởng thành.

Định hướng gene được sử dụng để nghiên cứu sức khỏe và bệnh tật
 
Hầu như mọi mặt của sinh lý động vật có vú đều có thể được nghiên cứu bằng định hướng gene. Rồi thì chúng ta đã chứng kiến một sự bùng nổ các hoạt động nghiên cứu ứng dụng kĩ thuật này. Định hướng gene hiện nay đã được quá nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng và quá nhiều cuộc tranh đua không thể có được một tóm tắt ngắn gọn các kết quả. Một số đóng góp hơi muộn của những người đoạt giải Nobel năm nay được trình bày phía bên dưới.

Định hướng gene đã giúp chúng ta thấu hiểu vai trò của hàng trăm gene trong quá trình phát triển bào thai động vật có vú. Nghiên cứu của Capecchi đã tiết lộ vai trò của những gene liên quan trong quá trình phát triển cơ quan động vật có vú và trong sự thiết lập hình trạng cơ thể. Công trình của ông đã cởi bỏ lớp hào quang vây quanh các nguyên nhân ẩu hàng loạt bệnh giảm thiểu chức năng bẩm sinh ở người.

Evans đã ứng dụng định hướng gene để phát triển các mô hình chuột cho các bệnh ở người. Ông đã phát triển hàng loạt mô hình cho bệnh u xơ nang di truyền ở người, sử dụng những mô hình nà để nghiên cứu cơ chế gây bệnh và kiểm tra hiệu ứng của liệu pháp gene.

Smithies cũng đã sử dụng định hướng gene để phát triển các mô hình chuột cho những bệnh di truyền chẳng hạn như u xơ nang, chứng thiếu máu. Ông cũng đã phát triển một số lớn chuột mô hình cho những bệnh thông thường ở người chẳng hạn cao huyết áp và xơ vữa động mạch.

Tóm lại, định hướng gene ở chuột đã tràn ngập mọi lĩnh vực của y sinh học. Ảnh hưởng của nó trên sự thấu hiểu chức năng gene và những lợi ích của nó đối với nhân loại sẽ tiếp tục gia tăng trong nhiều năm nữa.
 
Mario Capecchi sinh năm 1937 ở Ý, công dân Mỹ, PhD in Biophysics 1967, Harvard University, Cambridge, MA, USA. Howard Hughes Medical Institute Investigator và Distinguished Professor of Human Genetics và Biology at the University of Utah, Salt Lake City, UT, USA.

Sir Martin J. Evans, sinh năm 1941, Great Britain, công dân Anh, PhD in Anatomy and Embryology 1969, University College, London, UK. Director of the School of Biosciences và Professor of Mammalian Genetics, Cardiff University, UK.

Oliver Smithies, sinh 1925 ở Great Britain, công dân Mỹ, PhD in Biochemistry 1951, Oxford University, UK. Excellence Professor of Pathology và Laboratory Medicine, University of North Carolina at Chapel Hill, NC, USA.
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Online chưa đầy hai phút, phía trên để xin chào..., phía dưới thì you are not permission, bực cả mình.
 
Mario Capecchi sinh năm 1937 ở Ý, công dân Mỹ, PhD in Biophysics 1967, Harvard University, Cambridge, MA, USA. Howard Hughes Medical Institute Investigator và Distinguished Professor of Human Genetics và Biology at the University of Utah, Salt Lake City, UT, USA.

Sir Martin J. Evans, sinh năm 1941, Great Britain, công dân Anh, PhD in Anatomy and Embryology 1969, University College, London, UK. Director of the School of Biosciences và Professor of Mammalian Genetics, Cardiff University, UK.

Oliver Smithies, sinh 1925 ở Great Britain, công dân Mỹ, PhD in Biochemistry 1951, Oxford University, UK. Excellence Professor of Pathology và Laboratory Medicine, University of North Carolina at Chapel Hill, NC, USA.
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Online chưa đầy hai phút, phía trên để xin chào..., phía dưới thì you are not permission, bực cả mình.

Mới đọc bài của các bậc lão thành trên bio-vn. Có ai nhận xét gì về việc

1. Vì sao các bác được Nobel thường rất già

2. Sau khi được Nobel thì các bác ý thường làm gì

3. Vì sao công trình này tiến hành từ những năm 1990 mà giờ mới được trao giải

4. Kỹ thuật này đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam có ứng dụng không và tại sao?
 
Mới đọc bài của các bậc lão thành trên bio-vn. Có ai nhận xét gì về việc

1. Vì sao các bác được Nobel thường rất già

2. Sau khi được Nobel thì các bác ý thường làm gì

3. Vì sao công trình này tiến hành từ những năm 1990 mà giờ mới được trao giải

4. Kỹ thuật này đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam có ứng dụng không và tại sao?
1.Vì đây là một giải thưởng danh giá trên thế giới, trao cho những phát hiện ,cống hiến to lớn cho việc góp vào tri thức cho nhân loại vì thế nên hiếm có những người trẻ có thể làm được việc này ,đó là chưa tính lúc những người này có học vị ,sau đó bắt đầu nghiên cứu hàng chục năm , rồi vài chục năm sau mới được biêt đến tên tuổi thì lúc đó già rồi.
2.Chắc sau khi được tiếng tăm rồi thì lập nên một học viện nào đó tiếp tục nghiên cứu hoặc ngồi chơi xơi nước hưởng vinh vang .
3.Những công trình này phải được thực tế kiểm nghiệm là có góp phần to lớn,ảnh hưởng đến việc phát triển của 1 vài lĩnh vực nào đó đem laị lợi ích của loài người giống như tiêu chí Nobel đề ra
4.Cái đó chắc phải nhờ các anh chị em liên quan lĩnh vực này trả lời


Từ trái qua phải Mario R. Capecchi, Martin J. Evans và Oliver Smithies
 

Attachments

  • 1.jpg
    1.jpg
    16.1 KB · Views: 193
1. Vì sao các bác được Nobel thường rất già

Phải edit thế này Vì sao các bác được Nobel thường rất già và là đàn ông ?

Trong lịch sử giải Nobel sinh lý học hay y học chỉ duy nhất một người phụ nữ được giải là bà McClintoc. Ưu tiên trao cho người già. Lúc bà McClintoc nhận giải là 83 tuổi, lúc bà khám phá ra gene nhảy là năm khoảng 40. Hội đồng xét giải Nobel từng phạm một số sai lầm chẳng hạn thấy nghiên cứu mới có tầm quan trọng là chụp giựt trao liền (như liệu pháp thay thế hormone), có một số công trình đáng lẽ được giải nhưng dường như lúc đó người ta chăm chăm vào ý nghĩa công trình nên đến khi tác giả qua đời, hội đồng xét giải hối không kịp. Giải Nobel không trao cho người đã khuất. Mặc dù trao giải cũng khá kịp thời (cấu trúc DNA), nhưng Franklin đã mất nên chỉ có Crick và Watson nhận, hội đồng xét giải rất lấy làm tiếc về điều này.

Có thể họ muốn thử thách người đoạt giải Nobel ? Người đoạt giải Nobel là người đã phát hiện ra...mở ra...giúp con người sống thọ hơn nên những người đoạt giải chắc hẳn là người sống thọ.

4. Kỹ thuật này đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam có ứng dụng không và tại sao?

Em xem ti vi thấy thầy Phan Kim Ngọc đăng đàn.
 
Thông cáo báo chí

16 giờ 30, ngày 8-10-2007

Hội đồng xét giải Nobel tại viện Karolinska Thụy Điển hôm nay quyết định trao giải Nobel Sinh lý học và Y học 2007 cho

Mario R. Capecchi, Martin J. Evans và Oliver Smithies

về những khám phá ra "nguyên lí tạo biến đổi gene đặc hiệu ở chuột bằng cách sử dụng các tế bào nguồn tạo phôi" (principles for introducing specific gene modifications in mice by the use of embryonic stem cells).

Tóm tắt

Những người đoạt giải Nobel năm nay đã thực hiện một loạt các khám phá nền tảng liên quan tới tế bào nguồn tạo phôi (ES cells) và tái tổ hợp DNA ở động vật có vú. Những khám phá của họ đã tạo ra một kĩ thuật ưu việt được gọi là "định hướng gene" (gene targeting) ở chuột. Hiện tại nó đang được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của y sinh học - từ nghiên cứu cơ bản đến sự phát triển các liệu pháp mới.

Định hướng gene thường được sử dụng để làm bất hoạt một gene đơn lẻ. Những thí nghiệm "bất hoạt" (knockout") gene như thế đã và đang giải thích vai trò của số lớn các gene trong quá trình phát triển phôi, sinh lý phát triển, lão hóa và bệnh tật. Đến hôm nay, trên mười ngàn gene chuột (xấp xỉ một nửa số gene trong hệ gene động vật có vú) đã có thể bị bất hoạt. Những nỗ lực quốc tế nhằm tạo ra ngân hàng chuột bị "bất hoạt" với tất cả các gene có thể trở thành hiện thực trong một tương lai gần.

Bằng phương pháp định hướng gene, hiện nay người ta có thể tạo ra hầu hết các loại biến đổi DNA ở hệ gene chuột, điều này cho phép các nhà khoa học xác định vai trò của từng gene riêng lẻ đối với bệnh tật và sức khỏe. Định hướng gene đã tạo ra hơn 500 mô hình khác nhau trên chuột mang các dị tật của người, bao gồm chứng thoái hóa thần kinh, tim mạch, tiểu đường và ung thư.

Biến đổi gene bằng tái tổ hợp tương đồng

Thông tin hàm chứa chức năng của cơ thể và quá trình phát triển của chúng ta suốt cả đời được chứa trong DNA. DNA của chúng ta được đóng gói trong nhiễm sắc thể, nơi xảy ra sự bắt cặp nhiễm sắc thể giữa một nhiễm sắc thể nhận từ cha và một nhiễm sắc thể nhận từ mẹ. Thay đổi trình tự DNA trong bắt cặp nhiễm sắc thể như trên làm gia tăng biến đổi di truyền trong quần thể, quá trình này gọi là tái tổ hợp tương đồng (homologous recombination). Quá trình này được bảo tồn xuyên suốt tiến hóa và đã được giải thích ở vi khuẩn hơn 50 năm về trước bởi người đoạt giải Nobel 1958 Joshua Lederberg.

Cả Mario Capecchi và Oliver Smithies đã nhận thấy rằng tái tổ hợp tương đồng có thể dùng để sửa đổi một cách đặc hiệu các gene ở tế bào động vật có vú, và trước sau như một công trình của họ đi theo hướng này.

Capecchi giải thích rằng tái tổ hợp tương đồng có thể xảy ra giữa DNA được chuyển vào tế bào động vật có vú và nhiễm sắc thể của tế bào đó. Ông nhận thấy các gene khiếm khuyết có thể được sửa sai bởi sự tái tổ hợp tương đồng với DNA thu được (incoming DNA). Ban đầu Smithies đã thử sửa sai các gene đột biến ở tế bào người. Ông nghĩ rằng các bệnh di truyền về máu chắc chắn có thể điều trị được bằng cách sửa chữa nguyên nhân gây bệnh là các đột biến ở tế bào gốc tủy xương. Với những cố gắng này, Smithies đã khám phá ra các endogenous gene có thể định hướng một cách mãnh liệt hoạt động của chúng. Điều này đề xuất rằng tái tổ hợp tương đồng có thể dễ dàng tạo nên sự thay đổi chút ít (modification = change slightly) tất cả các gene.

Tế bào gốc phôi - phương tiện di truyền dòng tinh trùng chuột

Các loại tế bào ban đầu được Capecchi và Smithies nghiên cứu không thể tạo nên ở động vật các gene có tính định hướng. Điều này đòi hỏi một loại tế bào khác, từ đó đã hướng tới việc sử dụng tế bào giao tử. Chỉ loại tế bào này mới có khả năng di truyền DNA thay đổi chút ít.

Martin Evans đã làm việc với các tế bào phôi thai chuột (EC), mặc dù lấy từ các bướu nhưng chúng có thể biệt hóa thành bất cứ loại tế bào nào. Ông đã nhìn ra nên sử dụng tế bào EC như phương tiện chuyển nguyên liệu di truyền vào trong dòng tinh trùng chuột. Cố gắng của ông ban đầu không thành công bởi các tế bào EC mang nhiễm sắc thể bất thường do đó không thể định hình tế bào tinh trùng. Quan sát các biến đổi, Evans phát hiện ra các môi trường nuôi cấy tế bào có nhiễm sắc thể bình thường có thể được trực tiếp thiết lập từ phôi chuột giai đoạn đầu. Những tế bào loại này hiện nay được nhắc đến như tế bào nguồn tạo phôi (ES).

Bước nghiên cứu tiếp theo đã cho thấy ES có thể tạo nên dòng tế bào tinh trùng (xem hình). Phôi nhận được từ một chủng chuột đã gây nhiễm với ES từ một chủng chuột khác. Các phôi khảm này (chú thích, chứa đựng tế bào của cả hai chủng) được mang trong một thời kì bởi chuột mẹ thay thế. Thể khảm đời con sau đó được lai với nhau, và sự hiện diện của tế bào ES - các gene thu được đã phát hiện ở chuột con. Những gene này di truyền theo các định luật Mendel.

Hiện nay Evans đã bắt đầu thay đổi chút ít các tế bào ES về mặt di truyền. Để thực hiện mục đích này ông đã chọn retrovirus, loại virus có thể sát nhập gene của chúng vào trong nhiễm sắc thể. Ông giải thích sự chuyển Retrovirus DNA như vậy từ tế bào ES, thông qua chuột khảm, vào trong dòng tinh trùng chuột. Evans đã sử dụng các tế bào ES để truyền khả năng mang nguyên liệu di truyền mới cho chuột.

Hai ý tưởng đến cùng nhau - tái tổ hợp tương đồng ở tế bào ES

Vào năm 1986 những nỗ lực nhỏ lẻ đã bắt tay nhau để bắt đầu truyền đạt tế bào ES chứa gene định hướng đầu tiên. Capecchi và Smithies trước đó đã giải thích các gene có thể được định hướng bằng tái tổ hợp tương đồng trong môi trường nuôi cấy tế bào, và Evans đã xây dựng nên phương tiện cần thiết cho dòng tinh trùng chuột - tế bào ES. Bước tiếp theo là kết hợp hai cái lại.

Đối với những thí nghiệm đầu tiên, cả Capecchi và Smithies chọn gene hprt, gene dễ xác định. Gene này liên quan đến một bệnh di truyền hiếm ở người (hội chứng Lesch-Nyhan). Capecchi đã cải tiến các chiến lược để sử dụng các gene định hướng và phát triển một phương pháp mới (chọn lọc dương tính - âm tính, xem hình) có thể được ứng dụng về mặt di truyền.

Sự sinh sản của chuột bất hoạt - sự bắt đầu của một kỉ nguyên mới trong di truyền học.

Những thông báo đầu tiên trong đó tái tổ hợp tương đồng ở tế bào ES dùng để di truyền gene định hướng ở chuột được công bố 1989. Kể từ đó số thông báo về các chủng chuột bị bất hoạt đã gia tăng có tính định hướng. Định hướng gene đã phát triển thành một kĩ thuật có nhiều ứng dụng cao cấp. Hiện nay đã có thể chuyển các đột biến được hoạt hóa tại một số điểm đặc hiệu, hoặc trong tế bào biệt hóa hoặc trong các cơ quan, trong suốt quá trình phát triển của động vật có vú tới lúc trưởng thành.

Định hướng gene được sử dụng để nghiên cứu sức khỏe và bệnh tật

Hầu như mọi mặt của sinh lý động vật có vú đều có thể được nghiên cứu bằng định hướng gene. Rồi thì chúng ta đã chứng kiến một sự bùng nổ các hoạt động nghiên cứu ứng dụng kĩ thuật này. Định hướng gene hiện nay đã được quá nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng và quá nhiều cuộc tranh đua dẫn đến không thể có được một bản tóm tắt ngắn gọn các kết quả. Một số đóng góp hơi muộn của những người đoạt giải Nobel năm nay trình bày phía bên dưới.

Định hướng gene giúp chúng ta thấu hiểu vai trò của hàng trăm gene trong quá trình phát triển bào thai động vật có vú. Nghiên cứu của Capecchi tiết lộ vai trò của những gene liên quan trong quá trình phát triển cơ quan động vật có vú và trong sự thiết lập hình trạng cơ thể. Công trình của ông đã cởi bỏ lớp hào quang về nguyên nhân của hàng loạt bệnh giảm thiểu chức năng bẩm sinh ở người.

Evans đã ứng dụng định hướng gene để phát triển chuột mô hình cho các bệnh ở người. Ông đã phát triển hàng loạt mô hình cho bệnh u xơ nang di truyền ở người, sử dụng những mô hình này để nghiên cứu cơ chế gây bệnh và kiểm tra hiệu ứng của liệu pháp gene.

Smithies cũng đã sử dụng định hướng gene để phát triển chuột mô hình cho những bệnh di truyền chẳng hạn như u xơ nang, chứng thiếu máu. Ông cũng đã phát triển một số lớn chuột mô hình cho những bệnh thông thường ở người chẳng hạn cao huyết áp và xơ vữa động mạch.

Tóm lại, định hướng gene ở chuột đã tràn ngập mọi lĩnh vực của y sinh học. Ảnh hưởng của nó tới sự thấu hiểu chức năng gene và những lợi ích của nó đối với nhân loại sẽ tiếp tục gia tăng trong nhiều năm nữa.

Mario Capecchi sinh năm 1937 ở Ý, công dân Mỹ, PhD in Biophysics 1967, Harvard University, Cambridge, MA, USA. Howard Hughes Medical Institute Investigator và Distinguished Professor of Human Genetics và Biology at the University of Utah, Salt Lake City, UT, USA.

Sir Martin J. Evans, sinh năm 1941, Great Britain, công dân Anh, PhD in Anatomy and Embryology 1969, University College, London, UK. Director of the School of Biosciences và Professor of Mammalian Genetics, Cardiff University, UK.

Oliver Smithies, sinh 1925 ở Great Britain, công dân Mỹ, PhD in Biochemistry 1951, Oxford University, UK. Excellence Professor of Pathology và Laboratory Medicine, University of North Carolina at Chapel Hill, NC, USA.
 
Thật ra giải Nobel cũng như bao giải thưởng khác, cũng có yếu tố chính trị, thiên vị.... trong đó.

Nhiều người, nhiều công trình xứng đáng được giải nhưng họ không trao.

Nói chung để nhận Nobel ngoài việc có công trình, công trình có ý nghĩa thì cũng cần có tiền, quyền, thế :D.
 
Mời mọi người xem lại khái niệm gene knoct-out and gene knoct-in

Once a gene has been identified and its structure is known,it can be cloned and targeted for manifulation. Knoct-out mice are those especially bred or "engineered" in whom the gene of interest has been deleted. Knoct-in mice are bred with a specific gene inserted. The purpose of these genetically engineered mice is to understand gene function, including how genes are regulated or influenced by other genes. This newfound technology of gene targeting has provided incredible opportunities for creating new strains of mice with specific gene mutations. Hence, mice have been created with desired mutations that in humans cause specific genetic disorders. There are, for example, knock-out mice bred for phenylketonuria, Huntington’s disease, cystic fibrosis, Tay-Sachs disease, obesity, hypertension, breast cancer, and many other disorders. Using this method, research scientists first introduce the desired mutation into the cloned copy of the chosen gene. The mutation is then transferred into a pluripotent mouse embryo-derived.

Your Genetic Destiny: Know Your Genes, Secure Your Health, and Save Your Life
by Milunsky, Aubrey.
Publication: Cambridge, Mass. Perseus Books Group, 2001.
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,922
Latest member
188bettone
Back
Top