Ngành Giun vòi (Nemertini)

00792

Moderator
Staff member
Các động vật thuộc ngành này có xuất hiện cơ quan mới là vòi nằm trong bao vòi có chứa dịch, có thể thu vào hay phóng ra, phát triển độc lập với hệ tiêu hoá và đã xuất hiện hệ tuần hoàn. Hệ tiêu hoá dạng ống.
Chỉ có 2 lớp, hiện biết khoảng 900 loài, phần lớn sống ở biển (bùn cát và kẽ đá ven bờ biển ôn đới), một số ít sống ở nước ngọt (1 giống), trên cạn (vài giống ở miền nhiệt đới) hoặc sống hội sinh trong cơ thể thân mềm và giáp xác ở biển.
1. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Cơ thể giun vòi dài từ vài cm đến 2m, riêng loài Linaeus longissimus dài tới 30m, có khi cơ thể co lại rất ngắn. Cơ thể có tiết diện tròn hay dẹp theo hướng lưng, bụng, có màu xanh xám hay hồng nhạt. Hình dạng phía trước thân sai khác nhau tuỳ loài (hình 4.19).
482a85b41faa6e97a4ce11cfebd3c4414g.jpg

Phía trước cơ thể có miệng, hơi lệch về phía mặt bụng, trên miệng về phía mặt lưng có 1 lỗ nhỏ là lỗ vòi. Phía sau cơ thể có hậu môn. Cấu tạo nội quan cơ thể giun vòi có nhiều nét giống giun dẹp. Bao ngoài cơ thể là lớp biểu mô có tiêm mao. Xen kẽ các tế bào biểu mô là các tế bào tuyến, tiếp theo là màng gốc và đến các lớp cơ.
Đối với giun vòi thì sự phân bố các lớp cơ là đặc điểm phân loại quan trọng. Một số giun vòi có 2 lớp cơ (cơ vòng ở ngoài, cơ dọc ở trong), một số khác lại có thêm một lớp cơ dọc nữa nằm giữa lớp biểu mô cơ và cơ vòng, giữa bao cơ và nội quan có nhu mô lấp đầy (hình 4.20A).
Hệ tiêu hoá là một ống thẳng chạy từ miệng đến hậu môn. Hệ tiêu hoá bao gồm các phần sau: Sau miệng là ruột trước ngắn (thực quản), có nguồn gốc từ ngoại bì, tiếp theo là ruột giữa thường lõm thành 2 cái túi bên. Hệ tiêu hoá của giun vòi đã có ruột sau và hậu môn có nguồn gốc từ lá phôi ngoài. Giun vòi ăn thịt, thức ăn là các động vật nhỏ như giun, giáp xác, thân mềm. Vòi của chúng giữ nhiệm vụ tự vệ và tấn công bắt mồi. Khi phóng ra vòi có thể dài hơn chiều dài cơ thể, còn khi cuộn lại thì vòi nằm trong bao vòi. Một số giun vòi còn có thêm móc ở tận cùng vòi.
Hệ tuần hoàn của giun vòi là hệ mạch kín, gồm 1 mạch lưng và 2 mạch bên, ở phần giữa cơ thể chúng có mạch nối ngang. Mạch máu của giun vòi co bóp yếu, được sự hỗ trợ của bao cơ và sự biến dạng của cơ thể. Lưu thông trong mạch máu chủ yếu là dịch, một số bọn có huyết cầu tố. Như vậy so với giun dẹp thì giun vòi có các đặc điểm tiến bộ như hình thành hậu môn, thức ăn di chuyển có hướng trong ống tiêu hoá, phát triển hệ tuần hoàn… Mặt khác giun vòi có xuất hiện vòi là cơ quan bắt mồi độc lập với hệ tiêu hoá đặc trưng chỉ có ở giun vòi (hình 4.20B).
Hệ bài tiết của giun vòi là nguyên đơn thận (hình 4.20B).
Hệ sinh dục ở mức độ tổ chức đơn giản như giun dẹp, chỉ có tuyến sinh dục mà chưa có ống dẫn sinh dục và cơ quan giao phối.
Hệ thần kinh của giun vòi có vòng não, từ đó xuất phát các đôi dây thần kinh dọc. Cơ quan cảm giác là các thụ quan cảm giác hoá học và cơ học nằm trong phần lõm của các mô bì (rãnh bên) hay lồi lên dạng lông cảm giác. Một số loài có thụ quan ánh sáng (số lượng thay đổi từ vài chiếc đến hàng trăm chiếc), một số ít loài có bình nang.
6537ef21afb810de7732e552db1be2c44g.jpg
2. Đặc điểm sinh sản
Giun vòi là động vật đơn tính, tuy vậy có một số loài lưỡng tính theo kiểu giai đoạn đầu là cá thể đực sau chuyển thành cá thể cái (protandric). Thụ tinh ngoài, trứng phân cắt xoắn ốc và xác định rất giống với kiểu phân cắt của giun đốt. Phôi vị được hình thành theo kiểu lõm vào ở một cực, sau đó phôi vị hình thành nên ấu trùng có hình dạng rất khác nhau. Ở giun vòi không có móc thì hình thành ấu trùng có lông bơi (hình 4.21A), giống giun vòi con, còn ở giun vòi có móc thì hình thành nên ấu trùng pilidi có dạng mũ che tai (hình 4.21B - E).
77439e0245860742d6c2e9bf5cb7c43c4g.jpg
Quá trình biến thái như sau: Lúc đầu lá phôi ngoài xâm nhập vào xoang nguyên sinh, hình thành mầm của nội quan và nhu mô bao quanh ruột. Cùng lúc đó lá phôi ngoài lõm vào hình thành nên 7 túi (1 túi lẻ phía trước, 3 đôi túi ở hai bên, trước và sau lỗ miệng - hình 4.21D, E). Các túi lớn lên và bao quanh ruột và mầm nội quan, dính với nhau làm thành một vỏ 2 lớp bao quanh phần giữa của ấu trùng có nguồn gốc lá phôi ngoài. Cơ thể mới sẽ chui qua vỏ ấu trùng để lắng xuống đáy, lớn lên thành giun trưởng thành. Phần còn lại của ấu trùng pilidi sống thêm một thời gian sẽ chết hay bị con non ăn ngay.
3. Sinh thái và đa dạng giun vòi
3.1 Sinh thái
Phần lớn giun vòi sống trong bùn cát vùng ôn đới, chỉ có một số ít loài sống ở vùng nhiệt đới. Chỉ có 1 giống sống ở nước ngọt và 1 loài sống bơi có cơ thể dẹp ngắn trong suốt và có vây đuôi. Giống Pelagonemertes sống ở độ sâu hơn 1.800m. Một số ký sinh trên cơ thể giáp xác (cua, tôm), thân mềm (trai, ốc) thì có giác bám sau khoẻ để bám vào mô của vật chủ.
3.2 Đa dạng
Có 2 lớp: Lớp Có móc (Enopla) và lớp Không có móc (Anopla)
3.2.1 Lớp Không có móc
Vòi không có móc, lỗ miệng nằm ngay sau não. Dây thần kinh nằm trong lớp biểu mô hay phía dưới, chia làm 2 bộ
a. Bộ Giun vòi cổ (Paleonemertea): Sống chui rúc trong đáy bùn và cát ở biển. Không có ấu trùng bơi lội tự do. Đại diện có giống Tubulanus.
b. Bộ Giun vòi khác (Heteronemertea): phần lớn sống ở biển, một số loài gặp ở nước lợ và nước ngọt. Phát triển qua ấu trùng pilidi. Đại diện có giống Cerebratulus sống trong đáy cát, có thể bơi. Loài Lineus longissimus dài tới 30m, chiều rộng không quá 1cm.
3.2.2 Lớp Có móc
Vòi có 1 hay nhiều móc. Lỗ miệng nằm trước não, dây thần kinh chìm trong nhu mô đệm, có 2 bộ:
a. Bộ Hoplonemertea: Có kích thước bé. Đại diện có giống Amphiporus dài khoảng 12cm sống dưới rạn đá vùng triều, giống Stichostemma rất bé (1 – 2cm), giống Nectonemertes, Pelagonemertes sống trôi nổi.
b. Bộ Bdellonemertea (Giun vòi đỉa): Cơ thể có giác sau phát triển, hình dạng nhìn qua giống đỉa. Sống hội sinh trong khoang áo trai biển. Đại diện có giống Malacobdella (hình 4.22).
32bb1337edd3e786ef12062efe2a41e04g.jpg

Hương Thảo (theo giáo trình ĐVKXS)
 
Ngành Trùng bánh xe (Rotatoria)

Trùng bánh xe là nhóm động vật có một số đặc điểm quan trọng như: Dạng trưởng thành có số lượng tế bào nhất định, tầng cuticula bằng sợi protein, phát triển không qua lột xác. Các hệ cơ quan có các cấu tạo đáng chú ý như xuất hiện chùm cơ vòng và dọc, cơ hầu dày có cơ quan nghiền (trophi) đặc trưng, có móc ngón với tuyến dính.
Cơ quan vận chuyển là bánh xe do lông bơi kết thành. Ngoài ra là động vật phân tính, có nguyên đơn thận. Hiện nay đã biết có khoảng 2.000 loài, trong số đó 95% ở nước ngọt và đất ẩm, còn lại sống ở biển nông. Phần lớn sống tự do, di chuyển bằng bánh xe hay sống bám, số ít ký sinh ở động vật không xương sống (chủ yếu là nhóm có hình dạng giống Giun đốt).
1. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
ff43b9bca0ad5b465f6b65aebbae9d7c4g.jpg

Trùng bánh xe có kích thước cơ thể bé (lớn nhất là 3mm) nhưng sinh trưởng nhanh và sức sinh sản mạnh nên mật độ cá thể rất lớn (50 – 500 cá thể/lít nước), chúng là thức ăn quan trọng cho nhiều loài cá và thuỷ sản khác.
Cấu trúc chung của cơ thể của trùng bánh xe là có tầng cuticula (cấu trúc bằng sợi protein) bao ngoài, có xoang giả, biểu mô hợp bào, số lượng tế bào của cơ thể ổn định, có nguyên đơn thận. Chưa có hệ tuần hoàn và hệ hô hấp chuyên hoá.
Có thể lấy cấu tạo cơ thể của loài Phylodina rotier làm ví dụ. Hình dạng ngoài của trùng bánh xe rất nhỏ, toàn bộ cơ thể được bọc trong vỏ giáp trong suốt và trơn. Cơ thể được chia thành mặt lưng, mặt bụng, hai mặt bên lồi. Có thể phân biệt 3 phần cơ thể khác nhau phần đầu, phần thân và phần chân. Cạnh trước và mặt lưng có có 4 gai dài, cạnh sau có 2 gai dài và tận cùng có 2 gai ngắn. Đầu ít tách biệt với phần thân, có bộ máy tiêm mao (lông) rất phức tạp và luôn vận động nhằm gom thức ăn là các cặn bã hữu cơ (hình 5.2). Bộ máy này gồm 2 vòng tiêm mao: vòng ngoài được gọi là cingulum có các tiêm mao ngắn, vòng trong được gọi là trochus có tiêm mao dài hơn và phân bố trên 3 mấu lồi. Giữa các vòng tiêm mao có các lông cảm giác. Phần thân lớn, chứa nội quan. Phần chân tách biệt hẳn so với phần thân, có dạng thuôn nhỏ, kéo dài thành một đuôi và cuối phần chân tách thành 2 ngón. Phần chân có khả năng co giãn mạnh, ở trạng thái bình thường thì chân thò ra ngoài, khi bị kích thích thì rụt vào bên trong vỏ giáp.
Cấu tạo trong gồm các hệ cơ quan: Hệ cơ của trùng bánh xe không có bao biểu mô cơ, có các bó cơ riêng biệt nối các phần khác nhau của cơ quan, có thể điều khiển sự hoạt động của các phần cơ thể khác nhau (hình 5.3A).
Hệ tiêu hoá có lỗ miệng nằm phần trước của mặt bụng, nối liền với ống hầu, sau đó là hầu (dạ dày nghiền - mastax). Trong hầu có bộ máy nghiền rất phức tạp và đặc trưng cho mỗi loài. Sau hầu là thực quản ngắn, đổ vào dạ dày tuyến có kích thước lớn. Ruột rất ngắn, tận cùng là lỗ huyệt. Hệ thần kinh và cơ quan cảm giác bao gồm hạch trên hầu lớn gọi là não, còn hạch dưới hầu nhỏ. Từ hạch trên hầu có các dây thần kinh bụng lớn chạy dọc cơ thể đến tận chân (hình 5.3B).
cfebf646cacabaf962a4e0d0fd5d52884g.jpg
Hệ bài tiết là nguyên đơn thận. Từ các tế bào ngọn lửa, sản phẩm bài tiết đổ vào hai ống bài tiết nằm ở hai bên ruột rồi đổ vào bóng đái lớn và cuối cùng đổ ra ngoài qua huyệt.
Hệ sinh dục phân tính. Hệ sinh dục cái là các tuyến trứng và tuyến noãn hoàng nằm trong khối trứng. Từ tuyến trứng có ống dẫn trứng ngắn đổ vào huyệt. Con đực nhỏ hơn con cái và thường ít gặp và không có cấu tạo điển hình.
2. Sinh sản và phát triển
Trùng bánh xe phân tính, con đực thường bé hơn con cái nhưng di chuyển nhanh hơn và chỉ sống được vài ngày, không ăn nên không có cả miệng lẫn hậu môn và chúng sẵn sàng thụ tinh sau khi nở vài giờ. Trùng bánh xe sinh sản chủ yếu bằng trinh sản (parthenogenese).
6e41b18ca710cacb2276cc09b4934eae4g.jpg

Khi sinh sản hữu tính thì sự thụ tinh qua huyệt sinh dục hay trực tiếp qua da.
Vòng đời của trùng bánh xe rất phức tạp. Thường thì con cái cho tế bào noãn lưỡng bội (do không giảm phân). Noãn phát triển trực tiếp để cho con cái mới. Các noãn này được gọi là trứng amictic (không pha trộn vốn di truyền). Trứng amictic chỉ nở thành con cái được đẻ từng cái một, tương đối lớn và vỏ khá mỏng. Do một tác nhân nào đó (hoocmon, chất tiết hay yếu tố môi trường thay đổi…), con cái có thể chuyển sang đẻ trứng đơn bội (do giảm phân trong quá trình tạo noãn). Trứng này tương đối bé và có vỏ mỏng, nở thành con đực. Con đực thụ tinh cho con cái. Trứng này được thụ tinh được gọi là trứng mictic (có pha trộn vốn di truyền), có kích thước tương đối lớn và có vỏ dày. Trứng mictic rất bền vững, chịu được điều kiện môi trường bất lợi như quá nóng hay quá lạnh và có thể sống hàng chục năm. Khi gặp điều kiện thuận lợi chúng sẽ nở thành con cái. Thường thì mỗi năm chỉ có 1 – 2 thế hệ mictic trong khi đó có tới 20 – 40 thế hệ amictic. Trong một vòng đời con cái đẻ 4 – 40 trứng amictic). Số cá thể trong quần thể sau 15 giờ đã tăng gấp đôi. Gần đây người ta phát hiện có khoảng 0,5% tỷ lệ con cái trong quần thể vừa đẻ trứng lưỡng bội vừa đẻ trứng đơn bội, được gọi là con cái amphoteric (hình 5.4).
3. Phân loại
8e6d562751284f269dc9b506fe778e994g.jpg

Được chia làm 3 lớp
3.1 Lớp Seisonidea
Có ít loài, gồm các loài ký sinh trên giáp xác ở biển. Cơ thể kéo dài, đầu nhỏ, cổ nhỏ và kéo dài, thân có các đốt cuticula, chân hình cuống, bánh xe tiêu giảm. Đơn tính, không có hiện tượng trinh sản, chỉ sinh sản hữu tính. Kích thước lớn (đạt tới 3mm).
3.2 Lớp Bdelloidea
Thân kéo dài, đầu và chân có khác nhau, co rút mạnh, hình thành khoảng 15 – 18 đốt cuticula giả. Bánh xe có 2 đĩa hình cầu, cơ quan nghiền phát triển, thiếu vỏ cứng, có hiện tượng trinh sản, không gặp con đực.
3.3 Lớp Monogonouta
Hình dạng cơ thể rất sai khác nhau, có vỏ cứng hay thiếu vỏ. Sống tự do hay sống bám, có vỏ bọc ngoài, thường xen kẽ nhiều thế hệ sinh sản bằng trinh sản với 1 – 2 thế hệ sinh sản hữu tính.
Một số đại diện Trùng bánh xe được trình bày ở hình 5.5.
Hương Thảo (Theo giáo trình ĐVKXS)
 
Ngành Giun tròn (Nemathyhelminthes)

Bao gồm các động vật mang đặc điểm điển hình của động vật Có xoang giả. Có thể gặp giun tròn khắp mọi nơi (trong nước, nền đáy của các thuỷ vực, đất ẩm và ký sinh trong cơ thể động vật và thực vật).
Chúng có khối lượng lớn, ví dụ sống tự do trên các thảm mục hay nền đáy, mật độ giun tròn có thể đạt tới hàng nghìn hay hàng triệu cá thể trên m2, hay ký sinh trong cơ thể động vật, thực vật, trong một cơ thể vật chủ có thể tới hàng trăm nghìn cá thể.
1. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
1.1 Cấu tạo chung
db74caf61875e13b4627c7ff5437fc794g.jpg
Cơ thể hình thoi dài, 2 đầu nhọn và có tiết diện tròn, miệng ở mút phần đầu và huyệt ở tận cùng của cơ thể. Cơ thể giun tròn có đối xứng 2 bên nhưng vẫn giữ được đối xứng toả tròn của tổ tiên, thể hiện rõ nhất là ở hệ thần kinh và hệ cơ. Bọc ngoài xoang nguyên sinh là lớp cơ dọc được hình thành từ lá phôi giữa, phía trong xoang nguyên sinh thì tiếp xúc trực tiếp với thành ruột và nội quan khác.
Giun tròn đã có tầng cuticula bao ngoài với chức năng bảo vệ cơ thể khỏi tác động của môi trường ngoài, có mô hợp bào và bao cơ chỉ có một lớp cơ dọc. Tầng cuticula có cấu tạo: Gồm các sợi không co giãn được, xếp chéo nhau nên có thể biến dạng tạm thời theo kiểu uốn cong hay thu ngắn từng phần. Tầng này có thể cho nước và không khí thấm qua, nhờ vậy hoạt động hô hấp tiến hành qua toàn bộ bề mặt cơ thể. Tuy nhiên do có thể thấm nước nên giun tròn rất dễ mất nước nên phần lớn giun tròn sống trong nước và nơi ẩm ướt (đất ẩm hay trong cơ thể vật chủ). Mặt khác tầng cuticula còn có tính thấm chọn lọc, có thể cho một số chất hữu cơ hay các ion qua lại nên có vai trò trao đổi, điều hoà các chất. Thường thì mặt ngoài của tầng cuticula nhẵn, tuy nhiên có thể có các mấu lồi hay gai tham gia vào chức năng cảm giác và vận chuyển. Khi có sự lột xác xảy ra thì tầng cuticula mới có cấu trúc sai khác với lớp cũ (hình 5.8).
a9a1dd7f48721abda1d86be14f43ad9f4g.jpg
Lớp mô bì (biểu mô) nằm ngay dưới tầng cuticula, tế bào biểu mô của giun tròn mất hết vách ngăn, làm thành một lớp hợp bào nhiều nhân. Lớp biểu mô tạo thành 4 gờ về phía trong, trong mỗi gờ đều chứa dây thần kinh, riêng 2 gờ bên còn chứa ống bài tiết. Bốn gờ này chia lớp cơ dọc thành 4 dải (có từ 8 – 20 tế bào cơ). Mỗi tế bào cơ hình thoi dài (tới 5mm), giữa tế bào cơ có nhánh lồi liên kết với dây thần kinh lưng hay bụng (hình 5.9).
e5381fb608d609a246d911e4a4c9adcf4g.jpg

Cách di chuyển của giun tròn liên quan đến 3 cấu trúc riêng của giun tròn là tầng cuticula, lớp cơ dọc và dịch của xoang nguyên sinh. Cấu trúc của tầng cuticula cho phép biến dạng từng phần, sức căng của dịch cơ thể hợp với tầng cuticula tạo thành một lực đối kháng để đưa hoạt động cơ về vị trí cũ.
Các dải cơ dọc luân phiên co duỗi về phía lưng và bụng, uốn cơ thể và lắc lư để đưa cơ thể về phía trước, thích nghi với điều kiện sống trong bùn, thảm mục hay trong cơ thể vật chủ.
1.2 Cấu tạo hệ cơ quan
Hệ tiêu hoá: Bắt đầu bằng lỗ miệng nằm phía trước cơ thể, có 3 thùy môi bao phủ xung quanh gồm 1 môi lưng và 2 môi bên. Tiếp theo là xoang miệng hẹp và nhỏ. Xoang miệng có hình dạng khác nhau tuỳ theo cách lấy thức ăn ở các giun tròn. Ở một số giun tròn ký sinh động vật thì xoang miệng có răng, còn giun tròn ký sinh thực vật thì có kim hút thò ra ngoài. Sau xoang miệng là hầu hình bầu dục, có nguồn gốc lá phôi ngoài. Tiếp theo hầu là thực quản có thành cơ dày, đôi khi phình ra thành bầu thực quản. Xoang thực quản có hình hoa thị có lát cuticula và có tuyến tiêu hoá thường dẹp theo hướng lưng bụng và có nhiều nếp nhăn. Sau thực quản là ruột giữa chạy dọc cơ thể, có thành mỏng, bên trong có nhiều nếp gấp dọc. Ruột sau ngắn đổ ra ngoài qua hậu môn. Ruột của giun tròn có thể tiêu giảm tuỳ mức độ (hình 5.10).
3289d814dd83f9771cfcaeec18575ca94g.jpg
Hệ thần kinh: Có vòng thần kinh hầu (hay vòng thần kinh não) và các dây thần kinh chạy dọc cơ thể về phía trước và sau, trong đó dây thần kinh lưng và bụng có kích thước lớn hơn cả (có 6 dây dọc ngắn hướng về trước và 6 dây dọc dài hướng về sau) (hình 5.11). Giun tròn sống tự do có một số cơ quan cảm giác như cơ quan xúc giác và cảm giác hoá học.
15acb50767c827a8fa645352651f72b34g.jpg
82943a0cb833386d4f26ced7f8cb924f4g.jpg
Giun tròn chưa có hệ tuần hoàn và hệ hô hấp chuyên hoá. Dịch trong xoang cơ thể có chứa sắc tố làm nhiệm vụ tuần hoàn. Một số giun tròn hô hấp yếm khí. Một số giun tròn như giun đũa lợn khi môi trường giàu ôxy lại bất lợi cho chúng vì sẽ hình thành H2O2 gây độc đối với cơ thể.
Hệ sinh dục: Giun tròn là động vật phân tính, con đực và con cái sai khác nhau về hình dạng (con đực bé thường có đuôi xoè, con cái lớn hơn) và sai khác về cấu tạo của cơ quan sinh dục. Cơ quan sinh dục đực cấu tạo tương đối đơn giản, chỉ là một sợi dài liên tục. Đầu tiên là tuyến tinh, hình sợi rất mảnh, tiếp theo ống dẫn tinh có kích thước lớn hơn và ống phóng tinh có kích thước lớn nhất, tận cùng là cơ quan giao phối gồm 2 gai giao phối thò ra ngoài qua huyệt.
Cơ quan sinh dục cái có cấu tạo kép gồm hai sợi dài gấp nhiều lần so với chiều dài cơ thể, được gấp khúc và xếp với nhau thành búi trong cơ thể. Tuyến trứng là phần có kích thước nhỏ và mảnh, phần ống dẫn có kích thước lớn hơn. Tiếp theo là phần tử cung lớn nằm song song dọc hai bên cơ thể. Phía cuối 2 tử cung nhập với nhau đổ vào âm đạo, tận cùng là lỗ sinh dục cái.
77f19d1e9607f984de75c446bc8c4a2b4g.jpg
Hệ bài tiết: Phần lớn sản phẩm bài tiết được thải trực tiếp qua thành cơ thể. Một số giun tròn có hệ bài tiết có cấu trúc khác nhau nhưng hoạt động bài tiết còn chưa được chứng minh (hình 5.12). Có thể lấy hệ bài tiết của giun đũa lợn làm ví dụ: Gồm 2 tế bào bài tiết kéo dài thành 2 ống dẫn đơn bào màu nâu, chạy dọc 2 bên cơ thể, nằm trong gờ hạ bì bên. Về phía trước cơ thể, ống dẫn bài tiết phình to hơn, tại đây có có nhân tế bào và cầu nối 2 ống dẫn. Từ cầu nối ngang có ống dẫn chung đổ ra ngoài qua lỗ bài tiết, nằm ở mặt bụng của vùng môi. Ngoài ra còn có 2 tế bào hình sao lớn, màu vàng sẫm, có khả năng thực bào, phân bố ở khoảng 1/3 phía trước cơ thể, dọc theo các gờ hạ bì bên.
2. Sinh sản và phát triển
Phần lớn giun tròn đẻ trứng, một số ít đẻ con. Trứng giun tròn phân cắt xác định, đối xứng hai bên, hoàn toàn và gần như không đều. Mầm sinh dục phân hoá rất sớm, ngay từ giai đoạn 2 phôi bào: Phôi bào lớn là mầm của lá phôi ngoài còn phôi bào bé là mầm của hệ sinh dục và các nội quan khác (lá phôi trong). Thường gặp hiện tượng giảm nhiễm trong quá trình phân cắt trứng ở các giun tròn ký sinh (Bennett, Ward, 1986) (hình 5.13). Ở giai đoạn 2 phôi bào, một phôi bào là mầm của tế bào sinh sau này nguyên phân bình thường, còn phôi bào kia thì nhiễm sắc thể của nó bị tiêu biến một phần trước khi phân chia tiếp theo. Đến giai đoạn 64 phôi bào thì chỉ có 2 phôi bào có đủ bộ gen, là tiền thân của phần sinh, còn 62 tế bào còn lại chỉ chứa khoảng 20% bộ gen sẽ cho ra các tế bào phần thể. Một đặc điểm đáng chú ý nữa là sau giai đoạn tạo cơ quan, các tế bào thể không tiếp tục phân chia nữa. Vì vậy số lượng tế bào sẽ được giữ nguyên cho đến trưởng thành, tế bào chỉ lớn về kích thước mà không tăng số lượng. Phôi vị được hình thành theo cách lõm vào và có biến đổi ít nhiều. Phát triển hậu phôi của giun tròn nhìn chung qua 4 lần lột xác, phân biệt thành ấu trùng các tuổi từ 1 – 4. Hình dạng của ấu trùng giống trưởng thành (ở lần lột xác thứ 4).
90fb0217cf73b0b367b190c214eb27414g.jpg
Ấu trùng có thể lột xác ngay trong trứng và ở tuổi 3 có khả năng gây nhiễm. Phát triển của giun tròn không qua xen kẽ thế hệ, có thể phát triển trực tiếp hay gián tiếp.
Phát triển trực tiếp: Ở giun tròn ký sinh thực vật đẻ trứng vào đất hay vào cây chủ, phát triển trực tiếp ở đó. Giun tròn ký sinh động vật thì trứng theo phân của vật chủ ra ngoài và vào cơ thể vật chủ bằng con đường tiêu hoá. Khi thải ra ngoài thì trứng thường ở vào giai đoạn hình thành ấu trùng hay đang phân cắt vì vậy cần có thời gian phát triển ở môi trường ngoài thì ấu trùng mới có điều kiện nhiễm bệnh. Có một số trường hợp ấu trùng sống trong đất một thời gian rồi mới chui vào vật chủ qua da. Khi vào ống tiêu hoá của cơ thể vật chủ, ấu trùng có thể hình thành ngay con trưởng thành tại đó (Trichocephala, Oxyurata) hay qua vòng di chuyển phức tạp qua gan, phổi, tim… rồi trở về nơi ký sinh là ống tiêu hoá (Ascaridata).
Phát triển gián tiếp: Phát triển qua vật chủ trung gian là động vật không xương sống như côn trùng, giun đất, ốc, giáp xác… Thông thường trứng của giun tròn rời vật chủ chính ra môi trường ngoài một thời gian. Lúc này trứng của giun tròn ở vào các giai đoạn phát triển khác nhau tuỳ loài sau đó bị vật chủ trung gian ăn vào. Trong cơ thể vật chủ trung gian, ấu trùng phát triển một thời gian trước khi vào vật chủ chính. Một số giun tròn phát triển gián tiếp không qua môi trường ngoài mà vào thẳng vật chủ trung gian (ví dụ muỗi hút máu truyền bệnh giun chỉ) hay có khi vật chủ trung gian và vật chủ chính là một (giun xoắn). Như vậy ở giun tròn ta có thể hình dung con đường hình thành phát triển gián tiếp từ phát triển trực tiếp bằng cách có sự tham gia của vật chủ mới vào vòng đời, mở đầu như là một vật chủ chứa sau đó chuyển thành vật chủ trung gian (hình 5.14).
32b93fa3695841d64d497f55da2c3eae4g.jpg
Hương Thảo (Theo giáo trình ĐVKXS)
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,917
Latest member
sv368net
Back
Top