Lớp Song kinh có vỏ (Loricata), Song kinh không có vỏ (Aplacophora)

00792

Moderator
Staff member
Hiện nay đã biết khoảng 800 loài đang sống và 100 loài hoá thạch.
Cơ thể thường dẹp theo hướng lưng bụng, ở vị trí bám bình thường thì đầu, chân và xoang áo ẩn phía dưới, còn mặt lưng có 8 tấm vỏ xếp theo kiểu mái ngói. Tấm vỏ có thể lộ ra rõ ràng hay ẩn một phần (hoặc toàn bộ) dưới lớp biểu mô. Chân dạng tấm, mặt bám rộng nên bám rất chắc vào giá thể. Song kinh có vỏ bò chậm chạp, nếu ở nơi nhiều thức ăn thì chúng ít di chuyển (hình 6.5).
a9c0f827377ab611f576ba8aa3673d014g.jpg
Phía trước của chân là phần đầu, có lỗ miệng ở giữa. Hai bên chân là xoang áo, bên trong có nhiều đôi mang, số lượng các đôi mang thay đổi tuỳ loài (từ 11 - 26 đôi). Lúc con vật bám vào giá thể thì xoang áo kín. Nước chảy vào xoang áo nhờ cử động của các tế bào có tiêm mao nằm trên đôi mang.
Thức ăn của song kinh có vỏ là các rong rêu, tảo bám trên đá. Chúng sử dụng lưỡi bào để nạo vét rong rêu bám trên đá rất có hiệu quả nhờ cấu trúc đặc trưng của radula. Thức ăn được cuộn từng khối vào thực quản, sau đó vào dạ dày và tại đây được biến đổi nhờ các loại men tiêu hoá khác nhau. Thành dạ dày và phần đầu của ruột trước là nơi hấp thụ chất dinh dưỡng. Ruột giữa dài thích nghi với thành phần thức ăn có nguồn gốc là thực vật. Ngoài ra song kinh có vỏ có thể tiêu hoá nội bào nhờ các tế bào thực bào di chuyển thường xuyên trong ruột và ngoài thành ruột. Tuy nhiên tiêu hoá ngoại bào là chủ yếu còn tiêu hoá nội bào là thứ yếu.
Hệ tuần hoàn của song kinh là hệ tuần hoàn hở, gồm có tim nằm trong xoang bao tim ở phía cuối cơ thể. Tim gồm có 1 tâm thất nằm giữa và 2 tâm nhĩ nằm hai bên. Máu từ mang theo từng đôi mạch đổ vào tâm nhĩ. Từ tâm thất có 1 động mạch chủ hướng về phía trước.
Hệ bài tiết gồm có 1 đôi thận phân nhánh phức tạp, lỗ thận đổ ra ngoài ra 2 bên cơ thể, phễu thận mở vào xoang bao tim (hình 6.6).
867941c46af14b6f838f3e0f9ea361384g.jpg

6b6ddc7fd6de2e1326a61560e28de9a74g.jpg
Hệ thần kinh và giác quan của song kinh có mức độ phát triển thấp. Hệ thần kinh có cấu tạo nguyên thủy. Tế bào thần kinh rất ít khi tập trung thành hạch, chỉ có một số hạch thần kinh ở phần đầu. Quanh hầu có vòng thần kinh hầu, từ vòng thần kinh hầu có 2 đôi dây thần kinh hướng về sau. Có dây thần kinh chân điều khiển cơ chân và đôi dây thần kinh bên - tạng điều khiển áo và phủ tạng. Giữa các dây thần kinh dọc có các dây thần kinh ngang không theo một trật tự nào cả. Giác quan của song kinh thiếu bình nang, thiếu mắt và râu trên đầu. Có cơ quan dưới lưỡi gai, gờ cảm giác osphradi ở gốc mang và mũ cảm giác (estet). Estet là giác quan đặc biệt gồm có 2 loại lớn và nhỏ. Tuỳ từng loài estet có thể là cơ quan xúc giác, cấu tạo đơn giản (ví dụ như ở giống Chiton) hay còn là cơ quan cảm giác ánh sáng như ở giống Acanthopleura, cấu tạo phức tạp gồm có màng cứng, thể thuỷ tinh, màng lưới... Người ta còn cho rằng estet tiết ra màng sừng, bổ sung cho vỏ. Theo Sirenko (1992) thì sự sắp xếp của estet lớn và nhỏ tạo thành các đơn vị cấu trúc đặc trưng cho song kinh (hình 6.7).
Hệ sinh dục: Song kinh đơn tính, có tuyến sinh dục kép tập trung thành một thùy chung nằm ở giữa. Từ tuyến sinh dục có 2 ống dẫn sinh dục đổ ra ngoài gần lỗ thận.
Thụ tinh trong xoang áo giữa sản phẩm sinh dục của các cá thể khác nhau (dị thụ tinh). Trứng được đẻ từng cái một hay từng chùm, chuỗi. Ở một số loài trứng bám trên mang và phát triển thành ấu trùng (giống Hemiarthrum) hay có loài trứng phát triển thành con non trong ống dẫn trứng (loài Callistrochiton viviparus).
Pt triển: Trứng phân cắt hoàn toàn, đều ở giai đoạn đầu. Phôi vị được hình thành bằng cách lõi phôi thứ 3 được hình thành theo kiểu đoạn bào. Phát triển qua ấu trùng trochophora, tuy nhiên không thấy hình thành đôi túi thể xoang từ lá phôi giữa như đã gặp ở Giun đốt (hình 6.8).
Lớp Song kinh không có vỏ (Aplacophora) hay Rãnh bụng (Solenogastres)
Hiện nay đã biết khoảng 300 loài, cơ thể hình giun, kích thước bé (dưới 10 mm). Phần lớn sống ở đáy biển sâu, trong bùn lầy xen lẫn với các vùng có thủy tức tập đoàn là thức ăn của chúng. Cơ thể hình giun, chân tiêu giảm, chỉ còn lại mặt bụng có một rãnh có tiêm mao với một gờ ở giữa (vì thế nên có tên gọi là rãnh bụng). Vỏ tiêu giảm chỉ còn lại các gai hay vẩy đá vôi là sản phẩm của tế bào tiết riêng lẻ. Lưỡi gai chỉ phát triển ở một số ít loài, thường đơn giản hay thiếu hẳn. Ruột thẳng, không có dạ dày và các tuyến tiêu hoá. Chỉ có một đôi mang cuối cơ thể, đôi khi biến mất. Hệ thần kinh cấu tạo theo sơ đồ chung của song kinh có cỏ. Lưỡng tính, tuyến sinh dục đổ vào xoang bao tim, sản phẩm sinh dục sau đó được chuyển theo hệ bài tiết rồi đổ vào huyệt. Một số song kinh không có vỏ phát triển qua biến thái. Ở Việt Nam mới chỉ gặp một số ít loài thuộc các giống Chaetoderma, Dondersia ở độ sâu 15 - 25m.
Thảo Hiên (Theo giáo trình ĐVKXS)
 
Lớp vỏ Một tấm (Monoplacophora)

Trước đây chỉ biết đến động vật thuộc lớp này qua hoá thạch (tìm thấy hoá thạch ở các kỷ Cambri, Silua và Đevon), đến năm 1952 mới gặp loài Neopilina galatheae sống ở ven bờ Thái Bình Dương gần Mê Hi Cô, nơi có độ sâu 5.000m. Từ đó đến nay đã phát hiện được 19 loài đang tồn tại, tất cả đều ở đáy biển sâu trên 2.000m.
5737a26e4494986dc5ab2a464645f4d24g.jpg
b16e5eea687276e64789687a451429bf4g.jpg
Kích thước thay đổi, loài lớn nhất là Neopilina galatheae dài tới 37mm và loài bé nhất là Micropilina arntzi dài không hơn 1mm. Con trưởng thành có vỏ hình chóp nón, mặt trong của vỏ có vết bám của cơ sắp xếp theo kiểu phân đốt. Vỏ hình chóp nón, toàn bộ thân nằm dưới vỏ, chân hình đĩa, đầu ở phía trước chân và không phân biệt rõ ràng với phần thân, hai bên chân là rãnh áo có từ 3 - 6 đôi mang lá đối nhau. Tận cùng có nhú hậu môn. Cạnh lỗ miệng có 2 tua miệng hình thùy, giữa tua miệng và bờ trước của chân có cơ quan chia nhánh làm nhiệm vụ cảm giác (hình 6.9).
Hệ tiêu hoá có hầu, thực quản, dạ dày, ruột giữa và ruột sau. Có tuyến gan đổ vào dạ dày, lưỡi gai có răng sừng khoẻ. Hệ tuần hoàn có một đôi tim bên và mạch máu. Máu từ mang đổ vào 2 đôi tâm nhĩ rồi vào 1 đôi tâm thất. Thể xoang rộng, hệ bài tiết có 6 - 7 đôi thận, một đầu thông với thể xoang, đầu kia đổ ra ngoài vùng xoang áo, cạnh mang. Hệ thần kinh có cấu tạo điển hình của song kinh, có 1 đôi cơ quan cảm giác thăng bằng là bình nang. Đơn tính, tuyến sinh dục có 2 đôi trong thể xoang. Sản phẩm sinh dục được chuyển ra ngoài qua thận. Thụ tinh ngoài. Chú ý rằng cấu tạo cơ thể của Vỏ một tấm còn giữ được tính chất phân đốt của thân mềm cổ.
Hương Thảo (Theo Giáo trình DVKXS)
 
Lớp Chân bụng (Gastropoda)

1. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Đặc điểm nổi bật nhất của động vật chân bụng là cơ thể mất đối xứng và được chia thành 3 phần là phần đầu, phần thân và phần chân. Đầu ở phía trước, có mắt và các tua cảm giác (râu). Thân (hay được gọi là khối phủ tạng) nằm trên chân, là một túi xoắn. Chân là khối cơ khoẻ nằm ở mặt bụng, cử động uốn sóng khi bò.
3077f7ffeb281b0dc72a77f32adb64c54g.jpg
Toàn bộ cơ thể được bao trong một vỏ xoắn, thường xoắn hình chóp hay xoắn trên một mặt phẳng, có thể có thêm nắp vỏ. Mức độ phát triển vỏ rất khác nhau.
Cấu tạo vỏ điển hình, từ ngoài vào trong có các lớp như lớp sừng (periostracum), lớp lăng trụ canxi và lớp xà cừ (chỉ có ở một số như bào ngư, ốc xà cừ...) (hình 6.10).
Số vòng xoắn của vỏ ốc trưởng thành thay đổi ví dụ như ở ốc nhồi (Pila polita) là 5, ở ốc sên (Achatina fulica) thường là 6 đến 7 vòng. Vòng xoắn có thể theo chiều kim đồng hồ (xoắn thuận) hay ngược chiều kim đồng hồ (xoắn ngược).
Nội quan của động vật thân mềm được lớp áo bao phủ, nằm trong vỏ.
Hệ tiêu hoá: Phần lớn chân bụng ăn thực vật, một số khác ăn thịt bằng cách bắt con mồi, tiết men tiêu hoá phân huỷ con mồi rồi hút vào ống tiêu hoá, một số khác lọc thức ăn trong nước hay sống ký sinh. Đặc điểm đáng chú ý của hệ tiêu hoá chân bụng là có nhiều răng ở lưỡi gai (tới hàng trăm ngàn răng), tiêu hoá ngoại bào là chủ yếu (mặc dù có khối gan có thể tiêu hoá nội bào), dạ dày quay hướng trước ra sau, tuyến nước bọt có thể tiết các chất hoà tan đá vôi hay chất độc (ốc cối Conus), dạ dày của một số chân bụng ăn lọc như giống Lambris, Strombus có trụ gelatin tiết men tiêu hoá bằng cách bào mòn dần, ruột sau có thể xuyên qua tâm thất. Ngược lại hệ tiêu hoá của một số chân bụng ký sinh lại tiêu giảm.
Hệ tuần hoàn: Động vật chân bụng có hệ tuần hoàn hở, cấu tạo các bộ phận phức tạp hơn giun đốt. Máu không có màu, nhịp tim thay đổi tuỳ loài (20 - 40 lần/ phút ở nhiệt độ 200C). Tim có 1 tâm thất với 1 hay 2 tâm nhĩ, màu nâu nhạt nằm trong bao tim trong suốt. Ở ốc sên cấu tạo hệ tuần hoàn như sau. Tim có 2 ngăn, tâm nhĩ nằm phía trước, liên hệ với hệ tĩnh mạch và 1 tâm thất nằm phía sau liên hệ với hệ động mạch. Từ tâm thất đi ra có một động mạch lớn, sau đó chia làm 2 nhánh là động mạch đầu chạy lên phía trên, động mạch nội tạng chạy vào các vòng xoắn. Động mạch đầu phân nhiều nhánh nhỏ đi vào các nội quan như tiêu hóa, sinh dục... còn nhánh chính chạy thẳng lên trên, chui qua vòng thần kinh hầu rồi chạy ngược về phía sau đi vào chân ốc sên.
Hệ tĩnh mạch không nối với động mạch qua mao mạch mà qua khe xoang. Máu từ khe xoang tập trung thành 3 đường tĩnh mạch: tĩnh mạch chính, tĩnh mạch trụ và cung tĩnh mạch mép áo. Từ đó máu theo vào phổi, trong xoang phổi, máu trao đổi khí rồi tập trung vào tĩnh mạch phổi lớn, nằm chính giữa xoang phổi, mang máu chảy thẳng vào tâm nhĩ (hình 6.11).
a48fc7a51deecdacfa8009d1edb02ff04g.jpg
9dac3b6aef7b6836fb9db853b93382c44g.jpg
Hệ hô hấp
của chân bụng là mang lá đối hay phổi. Mang đặc trưng cho chân bụng sống dưới nước có từ 1 đến 2 mang hướng về phía trước và phía sau cơ thể. Một số chân bụng chuyển sang đời sống trên cạn thì cơ quan hô hấp là phổi (một số loài sống ở nước vẫn có phổi). Phổi là thành trong của áo có nhiều mạch máu tạo thành. Trong phổi có tĩnh mạch phổi lớn và các mạch nhỏ phân nhánh dày đặc. Xoang phổi là một xoang kín, được giới hạn bởi vỏ áo ở trên và mép áo ở phía trước, khối nội quan ở phía sau. Phổi thông với bên ngoài qua một lỗ nhỏ. Khi một số loài chân bụng ở nước vừa có cả mang vừa có cả phổi (ốc nhồi) nhờ thế chúng có thể sống được lâu hơn trên cạn. Ngoài ra nhiều loài chân bụng có cơ quan hô hấp thay đổi, đó là các phần phụ thứ sinh mọc ra trên bề mặt cơ thể. Số lượng và vị trí của mang quyết định số lượng và vị trí của tâm nhĩ, có liên quan đến lần quay 1800 và lần quay nhả xoắn điều hoà trong quá trình tiến hoá của động vật chân bụng (hình 6.12).
Hệ thần kinh và giác quan: Ở mức độ cấu trúc hạch thần kinh phân tán, do sự tập trung các tế bào thần kinh và dây thần kinh theo kiểu đối xứng 2 bên của song kinh và vỏ một tấm. Cấu tạo phổ biến gồm có 5 đôi hạch lớn là 1- não nằm phía trên hầu điều khiển các hoạt động của giác quan phần đầu, thành hầu và bình nang, 2 - hạch chân điều khiển chân, 3 - hạch áo điều khiển cơ quan áo, 4 - hạch mang điều khiển mang và osphradium và 5 - hạch nội quan điều khiển khối nội quan. Một số chân bụng khác còn có thêm các hạch phụ như hạch miệng, hạch osphradi. Tuy vậy một số chân bụng còn có dấu vết của hạch thần kinh kép hay tập trung cao độ các hạch quanh vùng hầu. Do hiện tượng xoắn vặn cơ thể nên hệ thần kinh bị bắt chéo, rất đặc trưng cho chân bụng (hình 6.13).
29e97d725fa8fb72d2d3bcaca6b496ef4g.jpg
Cơ quan cảm giác của chân bụng khá đa dạng, gồm có xúc giác (tua miệng và bờ vạt áo, cơ quan cảm giác hoá học - osphradi và đôi râu thứ 2, bình nang, mắt ở gốc hay ở đỉnh của đôi tua đầu thứ 2). Mắt có thể cấu tạo đơn giản như mắt của ốc nón hay phức tạp như mắt của một số chân bụng ăn thịt (Fissurella, Pterotrachea).
Hệ bài tiết: Do cấu trúc cơ thể chân bụng mất đối xứng nên chỉ có một số nhóm còn có 2 thận (ở ốc hai tâm nhĩ), còn phần lớn chỉ còn 1 thận, thận phải tiêu biến. Thận thường có hình chữ U, một đầu thông với xoang bao tim qua lỗ thận tim, còn đầu kia đổ vào xoang áo. Sản phẩm bài tiết của chân bụng ở nước là các hợp chất amôniac hay amin, còn của chân bụng trên cạn là axit uric.
Hệ sinh dục: Phần lớn chân bụng đơn tính, tuyến sinh dục nằm ở khối nội tạng ở cận gan. Mức độ phát triển của ống dẫn sinh dục thay đổi tuỳ nhóm nhưng phụ thuộc vào sự có mặt của thận phải. Ở nhóm Mang trước hai tâm nhĩ, sản phẩm sinh dục trước khi vào xoang áo đi qua một phần của thận phải. Một số chân bụng không có cơ quan giao phối, thụ tinh ngoài. Ở một số chân bụng đơn tính khác ống dẫn sinh dục có cấu tạo phức tạp và có nguồn gốc khác nhau. Chia làm 3 phần: Phần ống dẫn sinh dục chính thức có nguồn gốc từ tuyến sinh dục, phần tiếp theo được hình thành từ thận phải và phần cuối cùng có nguồn gốc từ vạt áo do rãnh tiêm mao trên vạt áo cuốn lại mà thành. Phần này có thể phân hoá thành các tuyến albumin, tuyến vỏ, túi nhận tinh hay bầu giao phối ở con cái (ví dụ như ở các giống Littoria, Urosalpinx, Murex, Nassarius Busycon), gai giao phối và tuyến tiền liệt ở con đực. Đối với các loài chân bụng này có quá trình thụ tinh trong.
Một số ít Mang trước, tất cả Mang sau và Có phổi lưỡng tính. Đáng chú ý là hoạt động lưỡng tính của chân bụng Crepidula sống định cư. Chúng có thói quen bám thành từng đống. Con non bao giờ cũng là con đực, lớn lên có thể chuyển thành con cái hay con đực do thành phần đực cái khác trong quần thể: Con non sẽ mãi mãi là đực nếu nó ở bên cạnh con cái, nhưng nó sẽ chuyển thành con cái nếu tách riêng và cho nó ở nơi có nhiều con đực hơn ở xung quanh.

2. Đặc điểm sinh sản và phát triển Phần lớn chân bụng đẻ trứng thành đám, chìm trong khối chất nhầy bám vào cây thủy sinh (như ốc đá, ốc Limnaea, Busycon, Aplysia v.v...), một số đẻ trứng từng đám bám vào hốc đất, bùn (ốc nhồi, ốc sên...).
Trứng phân cắt xoắn ốc, xác định, hoàn toàn và không đều. Ở nhóm Mang trước hai tâm nhĩ, trứng nở thành ấu trùng trochophora, còn các động vật chân bụng còn lại thì giai đoạn ấu trùng trochophora chỉ xảy ra trong trứng và trứng nở ra ấu trùng veliger bơi lội tự do. Cấu tạo ấu trùng veliger như sau: Có cơ quan bơi là 2 màng bơi hình bán nguyệt với tiêm mao dài, được hình thành từ vành tiêm mao trước miệng của ấu trùng trochophora. Do các phần sinh trưởng không đều nên ấu trùng veliger lần lượt hình thành chân, mắt, xúc tu, vỏ xoắn, miệng, hầu...
Đáng chú ý là ấu trùng veliger có qua một giai đoạn xoắn vỏ và quay khối nội tạng một góc 1800 (so tương đối với phần đầu). Quá trình xoắn xảy ra rất nhanh (3 phút như ở các loài thuộc giống Acmaea) hay khá lâu như ở giống Pomatias (10 ngày). Ở ốc nón (Patella), bào ngư (Haliotis) có 2 lần xoắn, mỗi lần quay 900, lần đầu thì nhanh hơn, lần sau thì chậm hơn. Quá trình xoắn của ấu trùng veliger của bào ngư nhờ vào sự hoạt động của 6 tế bào cơ có một đầu đính vào đỉnh vỏ, một đầu kia đính vào phần chân. Một số Mang trước sống ở biển như Busycon, Conus, Natica... cùng với tất cả Mang trước sống ở nước ngọt và Có phổi trứng nở trực tiếp thành con non.
Một số khác như Littorina và Mang trước thuộc họ Viviparidae đẻ con.

3. Hiện tượng mất đối xứng của Chân bụng và nguồn gốc của nó
32791a2994ea395cf0a73d0992afd84b4g.jpg
Động vật Thân mềm cổ có cấu tạo đối xứng hai bên, ấu trùng của nhiều nhóm động vật thân mềm cũng thể hiện đối xứng hai bên (hình 6.14). Như vậy hiện tượng mất đối xứng ở động vật chân bụng chỉ là hiện tượng thứ sinh, là một hiện tượng sinh học quan trọng và lý thú, nhất là khi xác định được nguồn gốc của hiện tượng này. So sánh cấu tạo cơ thể và căn cứ vào vị trí tương đối của xoang áo so với khối nội quan, có thể phân biệt được 4 sơ đồ cấu tạo ứng với các nhóm chân bụng khác nhau:
- Nhóm Hai tâm nhĩ: Nội quan có cấu tạo kép, xếp đối xứng hai bên (ngoại trừ gan, tuyến sinh dục và một phần ống tiêu hoá). Hệ thần kinh có cầu nối bên - mang bắt chéo trên và dưới ruột.
- Nhóm Một tâm nhĩ: Xoang áo ở phía trước thân, cơ quan áo, tâm nhĩ và thận chỉ còn lại một bên. Thần kinh có cầu nối bên - mang bắt chéo.
- Nhóm Có phổi: Sống trên cạn, hô hấp bằng phổi, mức độ cấu trúc cơ thể như
Một tâm nhĩ.
- Nhóm Mang sau: Xoang áo lệch về phía sau cơ thể. Cơ quan áo, tâm nhĩ, thận chỉ còn lại một bên, vỏ tiêu giảm ít nhiều.
0880b0d5bf5b8d88014ed62df95af78a4g.jpg
Naef (1927) đã giải thích bằng quan điểm hình thái, sinh thái như sau (hình 6.15): Chân bụng nguyên thuỷ vốn có vỏ hình nón, chuyển dần sang xoắn trong một mặt phẳng. Miệng vỏ ở cuối cơ thể, phần nặng của vỏ nằm về phía trước, xoang áo nằm về phía sau. Có đời sống bơi (hình 6.15A).
Khi chuyển sang đời sống bò, phần nặng của vỏ chuyển ra phía sau, để thích nghi với đời sống bò buộc chúng phải quay vỏ 180o. Lúc này xoang áo sẽ chuyển về phía trước, cầu nối thần kinh bên - mang do đó bắt chéo (ứng với cấu trúc của chân bụng Hai tâm nhĩ). Vỏ chuyển từ xoắn trong một mặt phẳng sang xoắn chóp nhằm tăng cường độ bền vững của vỏ. Trọng tâm của vỏ lệch sang một bên. Cơ thể điều chỉnh trọng tâm bằng cách quay ngược vỏ về phía sau và hơi nghiêng về phía thân (hiện tượng nhả xoắn điều hoà). Vỏ ép lên cơ quan áo theo một bên gây tiêu biến một bên mang và tâm nhĩ, thận cũng tiêu biến theo. Tùy theo mức độ nhả xoắn điều hoà mà hình thành các nhóm Mang trước Một tâm nhĩ, Có phổi hay Mang sau (hình 6.15 B-D).
Như vậy thứ tự xuất hiện các nhóm chân bụng là Mang trước hai tâm nhĩ, Mang trước một tâm nhĩ, Mang sau và một nhóm Mang trước một tâm nhĩ nào đó chuyển lên cạn để hình thành Có phổi.

4. Phân loại và vai trò thực tiễn
Động vật chân bụng chiếm tới gần 80% tổng số loài của động vật thân mềm (có khoảng 90.000 loài). Hiện nay đã biết khoảng 75.000 loài đang sống và 15.000 loài đã hoá thạch. Phần lớn động vật chân bụng sống ở biển, một số sống ở nước ngọt, ở cạn hay chuyển sang đời sống ký sinh. Được chia làm 3 phân lớp là Mang trước, Mang sau và Có phổi.
a. Phân lớp Mang trước (Prosobranchia): Mang ở trước tim, thường có 1 mang, ít khi gặp 2 mang. Xoang áo ở phía trước cơ thể, có dây thần kinh bên tạng bắt chéo. Vỏ phát triển và có nắp vỏ. Đơn tính, phần lớn sống ở biển, một số ít sống ở nước ngọt. Có 2 bộ.
Bộ Chân bụng cổ (Archaeogastropoda): Chân bụng nguyên thủy nhất, đặc điểm cấu tạo cơ thể còn giữ nhiều nét đối xứng hai bên như có 2 tâm nhĩ, phức hợp cơ quan áo chẵn (2 mang, 2 thận, 2 osphradi...). Do có 2 tâm nhĩ nên bộ này còn được gọi là bộ Hai tâm nhĩ (Diotocardia). Có dây thần kinh bắt chéo, chưa hình thành hạch chân, dây thần kinh dài. Mang gồm có hai dãy, phần ngọn không đính vào thành áo. Tuyến sinh dục đổ vào thận phải. Thụ tinh ngoài, phát triển qua ấu trùng trochophora.
Sống chủ yếu ở biển, một số sống ở nước ngọt (Theodoxus) hay cạn (Helicina). Các họ thường gặp là Neritidae, Trochidae, Turbinidae, Haliotidae, Patellidae... Ở Việt Nam bộ này thường gặp ở vùng nước lợ, ven biển, rừng sú vẹt, vùng dưới triều và vùng triều. Các giống phổ biến là Nerita (ốc đĩa, ốc ngọt), Trochus (ốc tháp), Monodonta (ốc đụn), Umbonium (ốc mành), Patella, Fissurella (ốc nón), Turbo petholatus (ốc xà cừ), Haliotis (bào ngư).
Bộ Chân bụng trung (Mesogastropoda): Cơ thể mất đối xứng, tim chỉ có một tâm nhĩ, phức hợp cơ quan áo lẻ (một mang, một osphradi, một thận). Vì chỉ có một tâm nhĩ nên được gọi là bộ Một tâm nhĩ (Monotocardia). Hệ thần kinh có dây bên tạng bắt chéo, đã hình thành hạch chân. Mang có cấu tạo một dãy, dính sát vào thành áo. Tuyến sinh dục không đổ vào thận. Thụ tinh trong, phần lớn phát triển qua ấu trùng veliger.
Bao gồm phần lớn các loài chân bụng hiện có, thích nghi rộng với điều kiện sống của môi trường như ở biển, nước ngọt, ở cạn, một số sống ký sinh. Ở vùng triều và nước lợ hay gặp ốc cỡ bé thuộc họ Littrorinidae, Cerithiidae, Potamididae, Assimineidae. Ở vùng dưới triều thành phần loài rất đa dạng, có các loài ốc cỡ lớn trên 100 cm như một số loài thuộc họ Cassididae, Doliidae. Các họ khác có kích thước nhỏ hơn như Cypraeidae, Turitellidae, Epitoniidae, Natacidae... Một số nhóm thích nghi với đời sống trong tầng nước như họ Jamthinidae có vỏ nhẹ và bám vào sứa ống, nhóm ốc Heteropoda có chân hẹp kéo dài thành tấm bơi, bao nội tạng thu nhỏ, vỏ mỏng hay tiêu giảm (Pterotrachea, Carinaria, Atlantia). Một số loài khác lại sống ký sinh trên động vật da gai như các giống Parenteroxenos, Stylifer, Thyca, Entococha, Paedophorus.... Trong nước ngọt thường gặp các họ Valvatidae, Thiaridae, Viviparidae, Pilidae, Hydrobiidae... Ở rừng đá vôi gặp họ Cyclophoridae có mang tiêu giảm.
Ở vùng biển Việt Nam thành phần loài thuộc Chân bụng trung rất phong phú. Các loài thường gặp và có giá trị cao như: Telescopium telescopium, Terebralia sulcata, Cerithidea sinensis (ốc đụn, ốc mút) phân bố ở rừng sú vẹt và nước lợ; Charonia tritonis (ốc tù và), Hemifurus tuba, Cassis cornuta (ốc kim khôi), Dolium variegatum (ốc mũ), Laevistrombus isabella (ốc lợi đỏ), Cypraea tigris (ốc mõ chù da hổ), Natica maculosa...
Ở nước ngọt thường gặp các loài: Pila polita (ốc nhồi), Sinotaia aeruginosa, Angulyagra polyzonata (ốc vặn), Cipangopaludina lecythoides (ốc bươu, ốc rạ).
Trong núi đá vôi ẩm hay gặp các giống Cyclophorus, Hybocystis. Một số loài là vật chủ trung gian truyền bệnh giun sán như Melanoides tuberculatus Stenomelania testudinaria...
Bộ Chân bụng mới (Neogastropoda): Cấu trúc cơ thể phân hoá cao nhất, lưỡi gai có ít răng, đầu kéo dài thành mõm, osphradi dạng lông chim, hệ thần kinh tập trung, miệng có nắp vỏ, có rãnh xi phông kéo dài. Hầu hết sống ở biển và ăn thịt. Thụ tinh trong. Nhiều loài có trứng phát triển trực tiếp thành con non.
Ở biển Việt Nam, thường gặp các đại diện của bộ này có vỏ với màu sắc đẹp. Các họ có số lượng lớn là Volutidae, Nassidae, Muricidae, Conidae, Harpidae, Mitridae, Galeodidae... một số có thể tiết chất độc (Conus) hay chất màu dùng để nhuộm (Murex). Bao gồm các giống thường gặp là Murex, Rapana, Conus, Harpa, Mitra, Nassarius, Hemifuscus, Babylonia... Trong đó có các loài thường gặp là Cymbium melo (ốc bù giác, ốc gáo) có nhiều thịt, vỏ đẹp, Babylonia areolata (ốc hương) có thịt ngon, Columbella rulgurans, Mitra rugosum, Phos senticosus... có vỏ đẹp.
b. Phân lớp Mang sau (Opisthobranchia): Cấu tạo cơ thể của Chân bụng mang sau thể hiện sự vặn xoắn không hoàn toàn (do quá trình nhả xoắn điều hoà về phía sau nên làm cho dây thần kinh bắt xoắn duỗi trở lại, đồng thời đưa xoang áo lệch hẳn một bên). Bao gồm các loài động vật Chân bụng vỏ tiêu giảm hay chỉ còn lại rất ít. Hệ thần kinh lệch. Xoang áo nằm ở phía bên phải cơ thể, đôi khi tiêu giảm hay mất hẳn.
Tim chỉ có 1 tâm nhĩ. Một mang nằm ở phía sau tim. Đôi khi mang được thay thế bởi mang thứ sinh. Lưỡng tính, chỉ sống ở biển. Phân lớp Mang sau được chia làm 4 bộ:
Bộ Mang kín hay Mang ẩn (Tectibranchia): Có xoang áo và mang chính thức, mang được áo che kín. Chân chia thành 2 thùy ở hai bên lớn. Sống bò dưới đáy. Ở Việt Nam đã gặp các giống Dolabella, Atys, Bulla, Hydatina, Cyclichna, Pupa...
Bộ Chân cánh (Pteropoda): Hai tấm bên chân phát triển thành vây bơi, thích ứng với đời sống bơi. Đại diện có giống Clione không có vỏ, không có mang, phân bố nhiều ở vùng cận cực, là thức ăn của cá voi. Ở Việt Nam đã gặp giống Limacina và các loài Creseis acicula, Cresies clava có số lượng lớn và phân bố rộng. Khi chết đi vỏ đá vôi lắng xuống tạo thành hợp phần cát bùn của đáy biển.
Bộ Ốc hai mảnh vỏ (Saccoglossa): Bên cạnh các đặc điểm về cấu tạo lưỡi gai, hầu tiêu biểu cho động vật chân bụng thì nhóm này còn có vỏ hai mảnh như vỏ trai (Berthelinia, Midorigai). Ở Việt Nam gặp các giống Phyllobrachus, Placobranchus…
Bộ Mang trần (Nudibranchia): Mang chính thức (nguyên sinh) tiêu biến, thay thế là mang phụ (thứ sinh) ở mặt lưng. Các hạch thần kinh tập trung về phía đầu. Cơ thể có dạng sên, bên ngoài đối xứng, không có vỏ, không có xoang áo. Ở biển Việt Nam đã biết có 200 loài, các giống có nhiều loài là Hexabranchus, Phyllidia, Armina, Phyllỉhoe, Melibe, Glossodoris...
c. Phân lớp Có phổi (Pulmonata): Do mang tiêu biến nên được thay thế bằng phổi. Phổi là mặt trong của xoang áo, có nhiều mạch máu, có lỗ thở nhỏ ở bên phải. Cơ quan áo lẻ, thần kinh lệch, các hạch thần kinh tập trung ở phần đầu. Vỏ phát triển hay tiêu giảm, không có nắp vỏ. Lưỡng tính, một số đẻ con. Sống ở nước ngọt hay trên cạn. Được chia thành 2 bộ.
Bộ Mắt ở gốc (Basommatophora): Có mắt nằm ở gốc tua đầu, tua đầu có 1 đôi, không co duỗi được. Vỏ phát triển. Phần lớn chuyển sang đời sống thứ sinh nước ngọt. Gặp phổ biến các giống như Lymnea, Gyraulus, Polypylis, Hippeutis, Pettancylus, Indoplanobris...
Bộ Mắt ở đỉnh (Styllommatophora): Có 2 đôi tua đầu co duỗi được, mắt nằm ở ngọn đôi tua đầu sau. Vỏ có thể tiêu giảm. Sống chủ yếu trên cạn. Bao gồm các loài thuộc ốc sên, sên trần, sên núi. Các họ phổ biến là Succineidae, Enidae, Ariophantidae, Achatidae, Zonitidae, Bulimulidae, Helicidae, Limacidae, Arionidae. Ở Việt Nam gặp phổ biến các giống như Achatina, Hemiphaedusa, Bradybaena, Camaena...

5. Sinh thái chân bụng Động vật Chân bụng phân bố rất rộng, phần lớn sống ở nước (số lượng loài ở biển và nước lợ nhiều hơn so với ở nước ngọt). Ở biển động vật chân bụng có thể phân bố ở độ sâu 5.000m, còn trên lục địa thì có thể đạt đến độ cao là 5.500m (loài Lymnaea kookeri Anadenus schaginteiti).
Chỉ một số ốc Mang trước thích nghi với đời sống trôi nổi, còn phần lớn động vật chân bụng sống bò ở đáy, một số khác sống bám, ít di động như các giống Patella, Ancylus, Vermetus...). Ngoài ra còn có các loài sống ký sinh trên động vật da gai như sao biển, cầu gai, hải sâm... hay các loài động vật thân mềm khác như trai (giống Mucronalia, Stilifer...).
Ốc có phổi ưa sống nơi ẩm, giàu mùn bã thực vật, về mùa lạnh hay khô chúng thường có thời kỳ nghỉ hoạt động, bịt miệng bằng chất nhầy có nhiều muối can xi do chúng tiết ra.
Một số ốc có mang có thể sống cả ở suối nước nóng (tới 530C). Riêng nhóm ốc nhồi (họ Pilidae) vừa có mang, vừa có phổi nên có thể sống trên cạn khá lâu.
Đa số ăn thực vật, mùn bã hữu cơ, rêu, nấm... Một số ốc có thể ăn thịt (các giống thuộc bộ Chân bụng mới, Chân cánh, họ Cypraeidae, Doliidae...), thức ăn là giun, sứa, trai và ốc khác.
Thảo Hiên (theo giáo trình ĐVKXS)
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,922
Latest member
188bettone
Back
Top