Không cần lượng, chỉ cần chất

sinhvienhanoi

Senior Member
Bài viết này có nguồn gốc từ: http://tuanvannguyen.blogspot.com/2010/02/khong-can-luong-chi-can-chat.html


Hôm cuối tuần, một phóng viên báo SGGP liên lạc tôi và có nhã ý đăng lại những bình luận của tôi về câu chuyện bảo vệ tiến sĩ qua ba bài trên tờ báo:

Luận án - nghiên cứu hay… nâng cấp?

Hội đồng du di!

Tiến sĩ quan và mục tiêu… thiếu khả thi

Tôi biên tập lại bài đó và gửi cho họ. Nhưng có lẽ vì câu chuyện hơi nhạy cảm hay khó khăn gì đó mà SGGP chưa/không đăng. Vậy tôi đăng trên blog cá nhân để các bạn có thể tham thảo. Tôi lấy tựa đề của SGGP vì thấy nó hay hay và thích hợp.


===

Câu chuyện về những khuất tất đằng sau buổi bảo về luận án tiến sĩ như phản ảnh qua 3 bài báo trên Sài Gòn Giải Phóng vào tuần qua có lẽ chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm trong kĩ nghệ đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Theo tôi thấy, điểm mấu chốt trong câu chuyện mà bài báo tường thuật là vấn đề đầu vào và qui trình đào tạo.

Đầu vào

Đầu vào, hay cụ thể hơn là tiêu chuẩn nhận nghiên cứu sinh, ở trong nước, nếu nhìn vào thủ tục và văn bản chính thức, ai cũng thấy khá chặt chẽ. Nào là phải thi vào, kể cả thi tiếng Anh; phải có đề cương nghiên cứu, và đề cương phải được duyệt qua. Nhưng trong thực tế thì nó mang nặng tính hình thức và “hành là chính” chứ chẳng mang tính khoa bảng gì cả. Còn qui trình đào tạo thì nếu đọc hết dự thảo “Qui chế đào tạo trình độ tiến sĩ” của Bộ GDĐT thì mới thấy có nhiều điều bất cập. Qui chế này có đến 50 điều chia thành 7 chương, qui định về những chuyện nhỏ nhất (như số trang của một luận án) đến chuyện quan trọng nhất (như tổ chức đào tạo), nhưng nội dung khoa học thì không nhiều. Điều đáng tiếc là có nhiều qui định chưa đi sát với trào lưu và chuẩn mực đào tạo tiến sĩ ở các nước tiên tiến. Liên quan đến phần “đầu vào” là vấn đề đánh giá đề cương xứng đáng cho một luận án tiến sĩ vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Trong thực tế, đại đa số đề cương nghiên cứu cấp tiến sĩ (tôi chỉ nói trong ngành y) ở Việt Nam chỉ là những công trình mang tính mô tả, hay kiểm kê lâm sàng (clinical audit), chứ chẳng có gì mang tính nguyên thủy (original) hay chuyên sâu nhằm cung cấp câu trả lời cho một vấn đề khoa học.

Qua những phản ảnh của loạt bài báo, tôi đoán rằng ý tưởng nghiên cứu của luận án có vấn đề. Tức là có vấn đề đã tồn tại ngay từ đầu vào. Rất khó biện minh một công trình mang tính lặp lại ý tưởng của người khác (thuộc loại nghiên cứu “me too”) mà được chấp nhận cho nghiên cứu cấp tiến sĩ. Nhưng đây không phải là vấn đề của nghiên cứu sinh, mà có lẽ là vấn đề của người hay nhóm người hướng dẫn luận án.

Qui trình

Theo ý kiến cá nhân, tôi thấy qui trình đào tạo tiến sĩ tại nhiều trung tâm và đại học ở trong nước chưa được hoàn chỉnh mấy. Nhiều nghiên cứu sinh tự “bơi”, và người hướng dẫn hầu như chẳng có giúp đỡ nào đáng kể và đó là một sự vô trách nhiệm. Nghiên cứu sinh cũng chưa làm quen với văn hóa khoa học, không được khuyến khích công bố kết quả trên các tập san khoa học quốc tế, không có điều kiệm tham dự các hội nghị chuyên ngành cấp quốc tế. Hệ quả là khi nghiên cứu sinh tốt nghiệp đáng lẽ họ trở thành một nhà nghiên cứu độc lập thì họ vẫn còn là một … nghiên cứu sinh.

Luận án tiến sĩ ở trong nước thường được cấu trúc rất hời hợt và thiếu tính logic. Nhiều luận án mà chỉ có một nghiên cứu duy nhất, nhưng tác giả cố tình trình bày bằng vài chục biểu đồ và bảng số liệu để … cho đủ số trang! Tôi đã thấy luận án với 20 bảng số liệu và 20 biểu đồ, mà theo tôi là có thể tóm lược bằng 2 bảng và 20 biểu đồ là hoàn toàn thừa (vì lặp lại bảng số liệu). Một lần khác tôi xem một luận án tiến sĩ mà trong đó, tác giả lặp lại những gì trong sách giáo khoa toán thống kê gần phân nữa luận án, và những kết quả thì phải nói là … không kết quả! Họ làm như vậy để đủ số trang, chứ chẳng quan tâm đến nội dung khoa học. Tôi có đề cập đến vấn đề này thì người ta nói kiểu làm ở VN như thế, làm khác đi là rất nguy hiểm vì thầy cô có thể đánh rớt!

Câu chuyện còn đề cập đến một vấn đề lớn mà hình như ai cũng biết nhưng chẳng ai nói ra: đó là thành viên trong hội đồng phản biện. Điều thú vị là cho dù nghiên cứu sinh không trả lời được phản biện, nhưng 5/7 thành viên trong hội đồng bỏ phiếu thông qua! Tại sao? Có thể những câu hỏi của những người phản biện không quan trọng hay lạc đề (rất thường xảy ra) nên hội đồng bỏ qua những câu hỏi và câu trả lời đó. Hay vì nghiên cứu sinh không nắm vững vấn đề? Nhưng dù sao đi nữa thì quyết định này cũng bất bình thường, bởi vì nghiên cứu sinh đáng lẽ phải trả lời tất cả những câu hỏi, dù quan trọng hay không quan trọng, của các chuyên gia phản biện. Ở nước ngoài, nghiên cứu sinh có nhiệm vụ trả lời tất cả câu hỏi (không được trốn tránh), nhưng họ cũng có quyền phản bác quan điểm của các chuyên gia phản biện nếu hội đồng hỏi … tào lao. Nói gì thì nói, “sự cố” này nói lên vấn đề bất cập trong đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam.

Những vị nể, cảm tình, đường dây móc nối như phản ảnh trong câu này: "Ngay ở hội đồng đánh giá luận án cấp bộ môn, mối quan hệ giữa người hướng dẫn và thành viên hội đồng đã có truyền thống 'có đi có lại' theo kiểu 'tôi du di cho luận án do anh hướng dẫn, sau này anh du di lại cho NCS của tôi'. Sau khi 'qua' cấp bộ môn, luận án coi như đã chắc ăn bởi uy tín của người hướng dẫn cũng đủ cho NCS… an tâm!" Ngoài ra, ở Việt Nam vẫn còn tồn tại tình trạng nhiều người chưa bao giờ làm nghiên cứu khoa học độc lập, chưa bao giờ có công bố quốc tế, nhưng lại ngồi trong các hội đồng chấm luận án tiến sĩ! Tôi cho đó là một bất cập cần phải chấn chỉnh càng sớm càng tốt.

Vài đề nghị

Đã từ lâu, tôi đề nghị 3 điều liên quan đến việc đào tạo tiến sĩ ở trong nước:

Thứ nhất là (hơi cực đoan một chút) nên ngưng các chương trình đào tạo tiến sĩ, rà soát lại tiêu chuẩn nghiên cứu khoa học. Hiện nay, nước ta có quá nhiều trung tâm (kể cả đại học) đào tạo tiến sĩ, nhưng rất nhiều những trung tâm này không có cơ sở vật chất đầy đủ để đảm bảo những nghiên cứu có chất lượng cao. Ngoài ra, nhiều giáo sư hướng dẫn nghiên cứu cấp tiến sĩ nhưng bản thân họ chưa bao giờ làm nghiên cứu khoa học độc lập, chưa bao giờ có những công trình được công bố trên các tập san quốc tế, chưa nắm vững những đề tài “nóng” trong chuyên ngành trên thế giới, và có nhiều người thậm chí chưa thạo phương pháp nghiên cứu khoa học. Những giáo sư như thế không nên tham gia vào chương trình đào tạo tiến sĩ.

Thật là buồn cười khi có những giáo sư như mô tả trong bài trên SGGP sau đây mà ngồi vào hội đồng chấm luận án: "một vị phó giáo sư nọ (thuộc ngành cơ khí nông nghiệp) không biết lấy đạo hàm của ln(x/R) với R là hằng, x là biến, không biết đầy đủ phương pháp quy hoạch thực nghiệm và nhiều cái sai trong khoa học khác. Vì vậy mà NCS làm đúng nhưng 'bài văn' phản biện của vị hội đồng ấy lại cho là sai."

Thứ hai là ra một qui định mới về đào tạo tiến sĩ. Việc tuyển sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể và minh bạch. Cần soạn thảo hẳn một bảng tiêu chuẩn cho học vị tiến sĩ cho từng ngành. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng là nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế trước khi viết luận án. Ở các nước trong vùng và trên thế giới, người ta qui định một nghiên cứu sinh (trong ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, y sinh học, v.v…) phải có ít nhất là 2 bài báo khoa học được công bố trên tập san quốc tế mới được bảo vệ luận án tiến sĩ. Để hội nhập, chúng ta cũng cần nghiên cứu qui định này ở Việt Nam.

Thứ ba là bỏ buổi lễ bảo vệ luận án. Buổi bảo vệ luận án hiện nay ở nước ta là một hình thức rất … không giống ai, làm tốn kém tiền bạc cho nghiên cứu sinh và có khi gây tiêu cực. Thật là vô lí khi một công trình nghiên cứu 3-4 năm mà chỉ được hỏi qua loa vài ba câu có khi chẳng dính dáng gì đến nội dung luận án! Ở nước ngoài, buổi bảo vệ luận án rất nhẹ nhàng (có khi rất vui vẻ), chỉ là hình thức “trình làng” tân tiến sĩ, vì luận án đã được duyệt và thông qua trước đó. Ở một số nước (như Anh và Úc) người ta không có buổi bảo vệ luận án, nhưng thay vào đó là những kiểm tra định kì (mỗi 6 tháng trong suốt quá trình theo học) bằng những seminar, và tổ chức phản biện kín với 3 người bình duyệt, trong đó có ít nhất là 1 giáo sư từ nước ngoài. Không có lí do gì Việt Nam ta không làm được như thế.

Xin nói ngay rằng tuy buổi bảo vệ luận án có vài bất thường, nhưng nếu nhìn tổng thể về tỉ lệ tốt nghiệp tiến sĩ thì kết quả cũng nằm trong xác suất dự đoán. Ở Úc và Anh, trong số 100 nghiên cứu sinh cấp tiến sĩ, chỉ có 50-60 người tốt nghiệp, phần còn lại chưa đạt yêu cầu và không được cấp bằng tiến sĩ. Không ai biết tỉ lệ này ở Việt Nam là bao nhiêu, nhưng ấn tượng mà tôi có được là cao hơn so với xu hướng quốc tế.

Để đảm bảo chất lượng đào tạo và không làm hao tốn tiền của của nghiên cứu sinh, tôi nghĩ cần phải quan tâm đến tiêu chuẩn cho đầu vào, và cải cách qui trình đào tạo tiến sĩ. Như người phương Tây thường nói “nếu đầu vào là rác, thì đầu ra cũng là rác” (garbage in, garbage out), nếu chúng ta đảm bảo khâu đầu vào thật chuẩn mực và thật tốt, cùng với qui trình đào tạo nghiêm chỉnh, thì đầu ra chắc chắn phải tốt. Đối với đào tạo tiến sĩ, chúng ta không cần lượng mà cần phẩm chất; chúng ta không cần phải có nhiều tiến sĩ mà cần những tiến sĩ thật sự xứng đáng với học vị đó để khi ra nước ngoài nghiên cứu sinh có thể tự hào về mảnh bằng “doctor” từ Việt Nam.
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,550
Members
56,918
Latest member
sv368net
Back
Top