Ai cho em biết động lượng khác động năng ở đâu với (ko tính cái CT),định nghĩa luôn hộ em cái từ "động lượng"

:spam:
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng_l%C6%B0%E1%BB%A3ng
Động lượng tịnh tiến (thường gọi là
động lượng hay
xung lượng) của một vật là đại lượng
vật lý đặc trưng cho sự truyền tương tác giữa vật đó với các vật khác. Đây là một đại lượng quan trọng trong việc nghiên cứu tương tác giữa các vật.
Đại lượng này bằng
tích của
khối lượng và
vận tốc. Do vậy
thứ nguyên của động lượng là thứ nguyên khối lượng nhân với thứ nguyên vận tốc. Trong
SI, động lượng có đơn vị
kg.
m/
s.
Đại lượng có ý nghĩa vật lý tương tự như động lượng áp dụng cho
chuyển động quay của các vật là
mômen động lượng.
Liên hệ với lực
Động lượng được liên hệ với
lực qua
định luật 2 Newton. Cụ thể, biến thiên động lượng,
L, của một vật theo thời gian,
t, bằng
tổng các lực,
F, tác động vào nó:
dL/
dt =
F
Định luật bảo toàn động lượng
Có thể suy ra trực tiếp từ
định luật 2 Newton một hệ quả: khi tổng các ngoại lực tác động vào hệ các vật bằng không thì
biến thiên động lượng của hệ cũng bằng không.
Đây chính là nội dung
Định luật bảo toàn động lượng. Cụ thể, định luật này có thể phát biểu: "
tổng động lượng (đối với hệ quy chiếu quán tính) của một hệ các vật không thay đổi nếu hệ đó không tương tác với bên ngoài (tức là tổng ngoại lực bằng không)".
Cơ học cổ điển
Trong
cơ học cổ điển, khối lượng của vật không phụ thuộc vào trạng thái
chuyển động, động lượng được định nghĩa bằng tích của
khối lượng cổ điển này với vận tốc.
Trong công thức này,
m là khối lượng của vật,
là vận tốc của vật đó trong
hệ quy chiếu đang xét, và
là động lượng của vật đối với hệ quy chiếu đó.
Sự thay đổi động lượng của một vật theo
thời gian trong hệ quy chiếu đang xét, theo
định luật 2 Newton, đúng bằng giá trị của
tổng các
lực tác động vào vật.
Thuyết tương đối
Động lượng tương đối tính, đề xuất bởi
Albert Einstein, là
tích của
khối lượng tương đối tính của vật với
vận tốc chuyển động. Khối lượng tương đối tính,
m, liên hệ với
khối lượng nghỉ (khối lượng cổ điển),
m0, qua vận tốc chuyển động,
v, theo
m = γ
m0 với:
v2 =
v.
v Khái niệm này xuất phát từ nhu cầu xây dựng một
véctơ-4 có độ lớn không thay đổi trong
biến đổi Lorent, tương tự như
động lượng thông thường trong
cơ học cổ điển. Véctơ-4 này xuất hiện một cách tự nhiên trong các
hàm Green của
lý thuyết trường lượng tử. Véctơ-4 này, còn được gọi là
động lượng-4, gồm 3 thành phần của vectơ
động lượng tương đối tính trong
không gian ba chiều,
p tương ứng với 3 chiều không gian, cùng
năng lượng tương đối tính tổng cộng,
E tương ứng với chiều
thời gian, chia cho
tốc độ ánh sáng,
c, để đồng bộ
thứ nguyên:
[
E/c,
p] Với năng lượng tương đối tính tổng cộng là:
E =
mc2 = γ
m0
c2 Động lượng-4 được xây dựng như vậy có đặc điểm là có độ lớn,
P2, không thay đổi khi thay đổi
hệ quy chiếu trong
không thời gian:
P2 =
p.
p -
E2/
c2 Các vật thể không có
khối lượng nghỉ như
photon cũng vẫn có động lượng tương đối tính. Do hạt này luôn chuyển động với tốc độ ánh sáng
p.
p=
E2/
c2 đối với photon.
Cơ học lượng tử
Trong
cơ học lượng tử, động lượng của một hệ, đặc trưng bởi một
hàm trạng thái, là kết quả thu được từ một phép đo, thực hiện bởi áp dụng
toán tử lên hàm trạng thái đó. Toán tử này gọi là
toán tử động lượng.
Với hệ vật lý là một hạt không có
điện tích và
spin, toán tử động lượng có thể được viết trên
hệ cơ sở vị trí là:
với
là
toán tử građiên,
là
hằng số Planck rút gọn, và
i là
đơn vị ảo (
căn bậc hai của -1).
Động lượng xuất hiện trong
nguyên lý bất định của
Heisenberg, trong đó nói rằng không thể cùng một lúc đo chính xác (không có
sai số)
động lượng và
vị trí của một hệ lượng tử. Động lượng và vị trí là hai đại lượng có thể tráo đổi nhau trong cơ học lượng tử.