Đề thi thử đại học

Nguyễn Thế Long said:
Câu 11: nếu phải chọn đáp án đúng nhất thì đúng là đáp án A, nhưng dù sao mình thấy cái phương án 50% đấy cũng không hợp lý vì thứ nhất tần số alen quy định bệnh máu khó đông trong quần thể người là rất nhó nên tỉ lệ kiểu gen XAXa cũng thấp. Thứ 2, ngay cả trong trường hợp mẹ là dị hợp thì theo lý thuyết xác suất cũng ko thể nói 50% con gái có khả năng mắc bệnh mà phải nói con gái có 50% khả năng mắc bệnh (vì ở đây số lượng là ít nên 2 cái này không tương đương).

Còn câu 9: có những người nhạy cảm với ánh sáng nên nhịp sinh học của họ bị ảnh hưởng rất chặt chẽ bởi ánh sáng. Ví dụ như mình buổi trưa mà cứ ngồi chỗ sáng sáng chả cần ngủ nhưng cứ đi vào chỗ tối tối là lại lăn quay (đau thế đấy).
......... Chán T_T

? Tại sao đáp án A lại không hợp lí. Trong các đáp án thì nó đúng nhất con gì.
Còn câu 9. Anh Long cũng đồng ý với đáp án D chứ.
 
Câu 9: Nguyên nhân của nhịp sinh học ngày đêm là do:
A. Sự thay đổi mang tính chu kì của môi trường.

Theo mình thì đáp án phải là A chứ. Vì ở đây câu hỏi là nguyên nhân gây ra nhịp sinh học ngày đêm. Còn cấu tạo của cơ thể thích nghi với hoạt động ngày hoặc đêm là đáp ứng của cơ thể chứ đâu phải là nguyên nhân
 
Nếu nói đầy đủ thì có 2 nguyên nhân gây ra nhịp sinh học:
1. Sự thay đổi có tính chu ký của môi trường.
2. Phản ứng thích nghi của sinh vật với sự thay đổi đó (được quy định bởi yếu tố di truyền).
Tuy nhiên nếu phải chọn 1 trong 2 lý do này thì mình vẫn chọn cái 2 là cái cốt lõi vì mình nhớ trong sách có nói 1 câu là các sinh vật được nuôi trong điều kiện chiếu sáng nhân tạo vẫn giữ nhịp ngày đêm như trong tự nhiên, điều này chứng tỏ yếu tố di truyền quan trọng hơn .
 
Ảnh hưởng tự nhiên có nguồn gốc từ mặt trời là một nguồn vô tận đem lại cho con người sự thay đổi theo mùa trong một năm và sự thay đổi ngày đêm trong 24 tiếng.
Ánh sáng quan trọng cho mọi sinh vật, vì ngoài việc nó là một nguồn năng lượng sưởi ấm trái đất nó còn có một vai trò quan trọng cần thiết cho mọi hệ sinh thái như sau: qua cường độ ánh sáng thực vật thực hiện quang hợp, tức là chất diệp lục tố màu xanh của lá là một sắc tố hấp thụ được tia đỏ của ánh sáng để đồng hóa CO2 và nước, tạo hydratcarbon như đường glucose và tinh bột mà tất cả sinh vật không có xanh không làm được. Vì vậy ta gọi thực vật xanh là sinh vật sản xuất, tự dưỡng.

Trên mặt đất ánh sáng phân bố với cường độ không đều, càng lên cao, lớp không khí mỏng hơn nên ánh sáng càng nóng. Do trái đất có hình cầu, có tia sáng chiếu thẳng góc đến vùng xích đạo nên ánh sáng mạnh và có nhiều ánh sáng trực xạ hơn vùng ôn đới, nên vùng xích đạo nóng hơn.

Khi được truyền qua môi trường trong suốt và đồng tính, thì ánh sáng truyền qua đường thẳng có hướng, gọi là tia sáng hoặc năng lượng bức xạ. Tùy theo độ dài bước sáng đó, ta có thể chia ánh sáng tự nhiên thành ba phần chính:

1) Tia không nhìn thấy được.

2) Tia tử ngọai có bước sóng ngắn (từ 10 – 380nm) độc cho sinh vật.

3) Tia hồng ngọai có bước sóng lớn hơn 780nm, chúng là những tia đó, là ánh sáng nhìn thấy được.

Ánh sáng nhìn thấy được gồm 7 tia có độ dài của sóng khác nhau, từ 380 – 780nm và có màu sắc khác nhau (tím, chàm, xanh, lục, vàng, cam, đỏ) là những màu của cầu vồng.

Tất cả các tia hợp lại tạo ánh sáng trắng của mặt trời.

Ngòai hiện tượng bốn mùa ánh sáng trắng còn có hiện tượng ngày và đêm bởi vì trái đất quay xung quanh trục của nó trong 24 giờ đồng hồ, có 12 giờ một khu vực nhận ánh sáng tức là ngày, và một khỏang 12 giờ khu vực đó không được chiếu sáng trực tiếp, tức là đêm. Ngày và đêm có ảnh hưởng đến sự phát triển của sinh vật đó là nhịp điệu ngày đêm hay đồng hồ sinh vật mà chúng ta đề cập đến trong đề tài này. Nhịp ngày đêm kéo dài 24giờ từ lúc mặt trời mọc. Đối với động vật có hệ thần kinh, nhịp ngày đêm thể hiện qua các phản xạ, thí dụ: gà, chim sẻ, chuồn chuồn hoạt động ban ngày và ngủ ban đêm, có nhóm hoạt động ban đêm như dơi, cú. Có nhóm hoạt động cả ngày lẫn đêm như cá, chuột, chồn. Phức tạp hơn như con sóc hoạt động vào lúc hoàng hôn và thức dậy vào buổi chiều.

Như vậy có nghĩa là nhịp điệu ngày đêm kéo dài 24 tiếng, từ lúc có ánh sáng bình minh và kéo dài đến bình minh hôm sau.

Con người tỉnh giấc lúc bình minh, bắt đầu hoạt động và lúc hoàng hôn bắt đầu muốn nghỉ, và hoạt động như vậy tùy theo ánh sáng của mùa và của vùng ta sống. Thí dụ: ngày và đêm bên Mỹ trái ngược với Việt Nam, và mọi sinh vật có nhịp điệu ngày đêm tùy theo nơi chúng sống.

Đối với thực vật, ảnh hưởng điều này vẫn tồn tại khi sinh vật sống hoàn toàn trong sáng hay hoàn toàn trong tối, nhưng với một thời kỳ khác bởi 24giờ.

Trong thí nghiệm có người tự giam mình trong một phòng đào sâu 3m dưới mặt đất, trong phòng chỉ có một bóng đèn và bà cũng ghi nhận nhịp điệu ngủ và thức của bà là 26 tiếng. Huyết áp cũng theo một nhịp điệu hoặc chu kỳ khác cũng có nhịp điệu riêng.

Thực vật là sinh vật không có hệ thần kinh nhưng cũng chịu ảnh hưởng ngày đêm rất rõ, thí dụ: một amid đơn bào phân chia đều khỏang cách đúng 24 tiếng.

Thực vật cấp cao có khả năng trổ hoa để duy trì nòi giống, thì ảnh hưởng của quang kỳ hiện rất rõ (quang kỳ là sự xen kẽ giữa ngày và đêm) và có thể chia thành 3 nhóm:

a) Cây ngày dài trổ hoa trong mùa có thời gian sáng dài, thời gian tối ngắn (mùa hè, mùa xuân).

b) Cây ngày ngắn trổ hoa trong mùa nào có thời gian sáng ngắn (như mùa thu và mùa đông).

c) Cây ?bất định, trổ hoa trong năm.
 
Trích dẫn:
"Đối với thực vật, ảnh hưởng điều này vẫn tồn tại khi sinh vật sống hoàn toàn trong sáng hay hoàn toàn trong tối, nhưng với một thời kỳ khác bởi 24giờ.

Trong thí nghiệm có người tự giam mình trong một phòng đào sâu 3m dưới mặt đất, trong phòng chỉ có một bóng đèn và bà cũng ghi nhận nhịp điệu ngủ và thức của bà là 26 tiếng. Huyết áp cũng theo một nhịp điệu hoặc chu kỳ khác cũng có nhịp điệu riêng."

Đây là 2 ví dụ chứng tỏ yếu tố di truyền mang tính quyết định.
 
Di truyền quyết định khả năng phản ứng nhịp nhàng của cơ thể trước sự thay đổi của môi trường mà cụ thể ở đây là ?ngày đêm. Nhưng câu hỏi ở đây là nguyên nhân nào gây ra nhịp ngày đêm ở sinh vật. Giả sử ngay từ đầu ko có sự thay đổi mang tính chu kì cuả môi trường thì cơ thể đâu cần phản ứng để thích nghi với điều đó, dẫn đến sẽ không hình thành các đặc tính thích nghi trên. Dần dần trong quá trình tiến hóa, sinh vật nào thích nghi hơn thì sẽ tồn tại.
Cho nên em vẫn nghĩ câu A mới là chính xác nhất
 
Nguyễn Thế Long said:
Đây là 2 ví dụ chứng tỏ yếu tố di truyền mang tính quyết định.

Đọc rõ ràng như thế mà anh Long vẫn bảo là di truyền à ?.
Em nghĩ câu A mới là chính xác nhất
 
Nhịp ngày đêm được quan sát trước Công nguyên. Từ năm 1724 ông Jean Jacques d’ ORTOUS DE MALRAN nhận thấy lá cây mắc cở (mimosa pudica) xếp lại vào ban đêm và mở ra lúc ban ngày và ghi nhận rằng nhịp điệu này cũng xảy ra trong tối hoàn toàn, và như vậy ánh sáng không phải là yếu tố duy nhất tạo ra phản ứng.

      Tiếp theo, ông LINNEUS ghi nhận rằng hoa cũng mở ra và khép lại vào những thời điểm chuyên biệt, như hoa quỳnh và hoa dạ lý hương nở vào đêm và hoa mười giờ nở lúc 10giờ sáng.

    Một thế kỷ sau, ông DE CANDOULLE ghi nhận rằng lá mimosa theo một nhịp điệu 22-23giờ chứ không phải 24giờ.

     Nghiên cứu quan trọng do NORTHWICH và HENDRICKS cho thấy rằng cây ngày ngắn được cảm ứng ra hoa mạnh nhất bởi tia đỏ tươi R có độ dài sóng 560-640nm nhưng ảnh hưởng này bị mất đi khi được chiếu tia đỏ xẩm FR có độ dài sóng 720 – 760nm trong vài phát với điều kiện là khỏang cách giữa hai lần chiếu không vượt quá 2-3 phút. Nghiên cứu sâu về sự đối nghịch giữa hai tia R và FR bởi Heller. Lance (1995) khám phá ra rằng trong thực vật có một sắc tố thâu nhận đỏ gọi là phytochrome hiện hữu ở hai trạng thái Pr và Pfr – Pfr kích thích ra hoa cây ngày dài và cản ra hoa cây ngày ngắn và tác động ngược lại trên hai lọai cây này khi có gián đoạn đêm bằng một tia sáng, tạo sự chuyển Pr thành Pfr và trạng thái Pr là trạng thái bất hoạt.

   Cạnh phytochrome là sắc tố màu thâu tia đỏ, còn tia lơ được sắc tố cryptochrome hấp thụ, tia UV. Các sắc tố màu nầy được nhận rõ nhờ tìm được các gen mã hóa chúng. Ngòai hai sắc tố phytochrome và cryptochrome, còn tìm được sắc tố màu thâu các tia sáng khác nhưng chưa được công bố.

     Các sắc tố nầy giúp gì? Đo quang kỳ dài hay ngắn? Nhà khoa học nêu giả thuyết về một đồng hồ sinh học và làm thí nghiệm sau: đặt một cây ngày ngắn trong tối liên tục 72giờ và được chiếu một tia đỏ 4 phút đều đặng, kết quả cho thấy cây ngày ngắn trổ hoa nhiều nếu được chiếu đều khỏang cách 24 giờ. Sự ra hoa của cây tùy thuộc vào sự chênh lệch giữa thời gian sáng bên ngòai và nhịp nội sinh bên trong, ảnh hưởng bên ngòai là do thay đổi mùa, còn ảnh hưởng nội sinh là do sự nhạy cảm bên trong, tức đồng hồ sinh học.

   Cho đến năm 2005, nhà sinh học biết thêm là phytochrome nằm trong tế bào chất trong nhân và tiền lạp thể. Và nêu ra một sơ đồ giả thuyết của đồng hồ sinh học như sau:

1) Ánh sáng được tiếp nhận bởi phytochrome và crytochrome.

2) Tín hiệu ánh sáng (phức hợp nhận ánh sáng hay sản phẩm của chúng) được chuyển tới và hoạt hóa (mở các gen) đồng hồ sinh học. Các gen nầy đến lượt hoạt hóa các gen CO.

3) Gen CO hoạt động hóa các gen điều hòa thời điểm ra hoa và do đó khởi phát sự tượng hoa.

   
? ? ?Các nhà nghiên cứu chuyên về khoa học thực nghiệm luôn luôn cố gắn đào sâu hơn nữa, nhưng nhìn lại các phương pháp khoa học thực nghiệm đều dựa vào kết quả của cân đo đong đếm là những gì mà các giác quan cho, thí dụ những màu sắc do mắt thâu nhận có đúng hay không? Bởi vì nhản cầu truyền được hình ảnh đến điểm vàng của võng mạt. Từ điểm vàng cảm giác sẽ được dẫn đến hệ thần kinh thị giác ở não và ta có sự đối chiếu, so sánh các đối tượng đẹp xấu, lớn nhỏ mà có ưa thích hay không. Như vậy mắt có chức năng tạo ra một tín hiệu thần kinh, đưa lên não là nơi xảy ra quá trình nhận thức, phân biệt các cảnh sắc của con người. Nếu một phần của hệ thống bị hỏng thì ta không ghi nhận được sắc cảnh đúng. Thí dụ: điểm vàng bị thương thì ta không ghi nhận được màu sắc. Thêm nữa ta chỉ thực sự nhìn thấy và phân biệt được khi mắt chúng ta kết hợp với ý thức tức là nhận thức cộng với ý thức tâm mới thành cảm giác hình ảnh đẹp xấu của vật. Lúc đó có sự phân biệt hình dáng vuông, tròn, cao, thấp, đẹp xấu và phân biệt màu sắc xanh đỏ hồng tím, từ đó khởi lên tâm tham, mê, ưa thích và bị lôi cuốn. Nếu ta nhận thức được cảnh sắc đều giả hợp thì khoa học thực nghiệm không cho ta một bóng dáng nào. Và một hình dáng, màu sắc đều hiện hữu tương đối mà thôi, chứ không tuyệt đối để ta hoàn toàn tin tưởng.

? ? ?Còn biết bao điều mà khoa học thực nghiệm chưa giải thích được. Ví dụ, tại sao trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600km một giờ ở đường xích đạo, nếu nó quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 lần và sức nóng mặt trời cũng tăng mười lần, thì sinh vật đều bị thiêu  đốt hết và nếu đêm ngắn hơn 10 lần và lạnh hơn 10 lần thì sinh vật sẽ chết lạnh hết.

    Mặt trời nóng đến 5500oC, quả địa cầu đứng ở một vị trí không quá xa mà cũng không quá gần, vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng đó: không quá xa để ta chết lạnh và không quá gần để ta chết nóng.

       Trục trái đất nghiêng theo một độ là 23o, nếu trái đất đứng thẳng không nghiêng theo bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa.

      Nếu ta nhìn đến sinh vật như con lươn biển, tại sao chúng phải rời những ao, hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới rồi bơi xa cả mấy nghìn cây số để đến quần đảo nơi chúng được sinh sản ra, để đẻ và chết.

      Khoa học thực nghiệm chưa giải thích được nguyên nhân của ba thí dụ trên. Và chúng ta cũng chưa biết lúc nào sự sống kết thúc và chết bắt đầu: một con chim đang bay đâm đầu vào kiếng ôtô và chết, cơ thể chim giống như nhau vài giờ trước và sau phút đó. Ta chỉ biết rằng chim tắt thở thôi.

      Một rể cây non có thể xuyên qua một tảng đá, một giọt nguyên sinh có thể cử động. Nó chứa hết mầm sống của muôn loài. Nhưng sự sống đó bắt nguồn từ đâu?

     Không có tự tánh cố định nên biến chuyển vô thường, và trong khỏanh khắc 0,25giây Pr đã biến thàn Pfr hay ngược lại nếu gặp tia đỏ thích hợp.

    Nhờ cái nhìn hiện hữu là mong manh vô thường nên con người làm lắng diệu dục vọng đến khi đập nó hoàn toàn thì môi trường mới được cân bằng.
 
Nhịp sinh học:


hiện tượng lặp đi lặp lại có tính chu kì các đặc tính, cường độ, các trạng thái và sự kiện ở tất cả các cơ thể sống, từ đơn bào đến đa bào. Gồm nhiều đặc điểm: tần số, biên độ, pha, mức độ, trắc diện, vv. phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra chúng. Được chia ra NSH ngoại sinh và NSH nội sinh. NSH ngoại sinh là những dao động có tính chu kì do các yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, áp suất khí quyển, sức hút Trái Đất, bức xạ vũ trụ, vv; gây ra là những phản ứng thụ động của cơ thể đáp lại những dao động của yếu tố ngoại môi. NSH nội sinh là những dao động tự phát do các quá trình tích cực trong chính bản thân các hệ thống sống và duy trì bằng cơ chế liên hệ ngược. Về mức độ tổ chức sinh học, người ta chia NSH thành: NSH trong tế bào (chu kì phân chia) và trong cơ quan (co bóp ruột), trong cơ thể (chu kì rụng trứng) và trong quần thể (dao động số lượng cá thể). Theo chức năng, có thể chia thành các nhịp sinh lí (chu kì hoạt động của từng cơ quan như hô hấp, nhịp tim) và nhịp sinh thái - thích nghi (x. Nhịp ngày đêm). Tần số các nhịp sinh lí thay đổi rất mạnh, phụ thuộc vào gánh nặng chức năng, tần số nhịp sinh thái; ngược lại NSH tương đối ổn định và được củng cố bằng di truyền. Thời gian các NSH khác nhau: từ vài phần giây (chu kì xung động thần kinh) đến vài tháng (chu kì ngủ đông của một số động vật) và đến hàng chục năm (chu kì dao động quần thể). Trong NSH, đáng chú ý nhất là nhịp ngày đêm; rồi đến nhịp nhiều ngày (nhịp tháng) - NSH đặc trưng cho động vật sống gần bờ biển; nhịp sinh sản của động vật có vú. Nhịp nhiều năm là sự dao động về số lượng cá thể trong quần thể, phụ thuộc vào các quá trình tự dao động trong chu kì dinh dưỡng với thời gian 2 - 15 năm. Những NSH có chu kì khác nhau ở một cơ thể sống có thể ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng thường tương đối độc lập. Các NSH có chu kì giống nhau và ngược lại, thường có mối quan hệ phụ thuộc theo một trật tự nhất định. Vd. những nhóm tế bào đặc biệt được gọi là nhóm dẫn nhịp có thể đóng vai trò trung tâm của một hoạt động đồng bộ.


http://dictionary.bachkhoatoanthu.g...mZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD1pbg==&page=15
 
Thứ nhất: tôi chẳng thấy rõ ràng gì cả, bạn cứ nêu 1 đống dẫn chứng, ai biết đâu là đâu, nếu bạn muốn đề cập đến cái gì thì nên in đậm hoặc gạch chân để người ta chú ý.
Thứ 2: bạn thấy gì qua thí dụ đấy? Khi mà cây ở trong điều kiện tối hoàn toàn, tại sao nó vẫn có nhịp ngày đêm?
Trong ví dụ về người giam mình trong phòng với 1 bóng đèn được thắp sáng liên tục, tại sao người đó vẫn có nhịp ngày đêm? Bạn thử giải thích xem nào?
Mà bạn Thản chuyển từ phương án D sang phương án A rồi đấy ah? Mình đã nói rồi, mình chỉ băn khoăn giữa 2 phương án A và B . Mình chọn B nhưng nếu nó là A thì cũng là do cách nhìn nhận của mỗi người là khác nhau, mình chẳng có gì bất mãn cả, còn đáp án D thì mình không đồng ý từ đầu rồi.
Cách giải quyết tốt nhất bây giờ là chờ đáp án thôi.
 
Nguyễn Thế Long said:
Thứ 2: bạn thấy gì qua thí dụ đấy? Khi mà cây ở trong điều kiện tối hoàn toàn, tại sao nó vẫn có nhịp ngày đêm?
Trong ví dụ về người giam mình trong phòng với 1 bóng đèn được thắp sáng liên tục, tại sao người đó vẫn có nhịp ngày đêm? Bạn thử giải thích xem nào?

Trên kia em có nói rồi đấy. Giả sử ngay từ đầu ko có sự thay đổi mang tính chu kì cuả môi trường thì cơ thể đâu cần phản ứng để thích nghi với điều đó, dẫn đến sẽ không hình thành các đặc tính thích nghi trên. Dần dần trong quá trình tiến hóa, sinh vật nào thích nghi hơn thì sẽ tồn tại. Dĩ nhiên là các đặc diểm thích nghi đó có thể được di truyền từ đời này sang đời khác
 
Đúng, nhưng ở đây mình muốn đề cập đến cơ chế gây ra nhịp sinh học, chứ không phải nguyên nhân sâu xa của nó. Nếu như điều kiện chiếu sáng không thay đổi mà sinh vật vẫn có nhịp ngày đêm thì yếu tố nào gây ra chu kỳ ngủ - thức của sinh vật ?
Việc nhịp ngày đêm vẫn xảy ra trong điều kiện ánh sáng ổn định chứng tỏ ánh sáng không phải là yếu tố duy nhất gây ra nhịp ngày đêm của sinh vật.

Giả thuyết được đặt ra là cơ thể được quy định trong các yếu tố di truyền là có thể duy trì trạng thức trong 1 khoảng tương đối về thời gian. Nếu không có yếu tố ánh sáng tác động, quá khoảng thời gian này, trạng thái thức sẽ bị bất hoạt và thay vào đó là trạng thái ngủ. Mình cho rằng đây là 1 dạng phản ứng tự vệ của cơ thể vì dù thức hay ngủ thì cơ thể cũng không thể duy trì quá lâu. Cơ thể sẽ ngủ khi mệt và thức dậy khi cảm thấy đã ngủ đủ thời gian để phục hồi.

Điều tương tự với hoạt động săn mồi ở động vật. Hổ săn mồi về đêm nhưng khi chúng đói, ai dám đảm bảo rằng chúng không săn mồi ban ngày?
 
Em tìm được một bài trong sách có thể nói rõ nhất:


NHỊP SINH HỌC: SỰ THÍCH NGHI ĐẶC BIỆT CỦA SINH VẬT VỚI MÔI TRƯỜNG SỐNG

? ?Môi trường sống của mọi sinh vật trên trái đất đều thay đổi có tính chu kỳ, chủ yếu là chu kỳ mùa và chu kỳ ngày đêm. Khả năng phản ứng của sinh vật một cách nhịp nhàng với những thay đổi có tính chu kỳ của môi trường là nhịp sinh học.
? Càng xa vùng xích đạo thì dao động mùa về khí hậu (nhiệt độ và ánh sáng...) càng lớn. Ở những vùng có băng tuyết vào mùa đông phần lớn cây xanh rụng lá và sống ở trạng thái chết giả, chỉ một số ít cây như thông vẫn xanh tươi trong băng tuyết. Động vật biến nhiệt thường ngủ đông. Khi đó trao đổi chất của cơ thể con vật giảm đến mức thấp nhất, chỉ đủ để sống. Các hoạt động sống của chúng sẽ diễn ra sôi động ở mùa ấm (xuân, hè). ?Một số thú như gấu, chồn khi thức ăn trở nên khan hiếm cũng ngủ đông. Chim và thú thay lông trước khi mùa đông tới. Thú thay một bộ lông dài có lớp lông tơ dày, chim cũng phát triển bộ lông tơ. Phản ứng tích cực để qua đông cũng khác nhau tuỳ nhóm động vật: sóc tích trữ thức ăn để qua đông còn chó sói vẫn hoạt động kiếm mồi tích cực vào mùa đông. Một số loài động vật khác, đặc biệt là chim, có bản năng di trú, rời bỏ nơi giá lạnh, khan hiếm thức ăn về nơi khác ấm hơn và nhiều thức ăn hơn, sang mùa xuân chúng lại bay về quê hương. Việt Nam là quê hương thứ 2 của nhiều loài chim di trú như én, vịt trời, chim lôi, sếu, cò quăm...

? Ở vùng nhiệt đới do dao động về lượng thức ăn, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng không quá lớn nên phần lớn sinh vật không có phản ứng chu kỳ mùa rõ rệt. Tuy nhiên cũng có một số cây như bàng, xoan, sòi rụng lá vào mùa đông, nhộng sâu sòi và bọ rùa nâu ngủ đông, nhộng bướm đêm hại lúa ngô ngủ hè vào thời kỳ khô hạn.

? Đáng chú ý là các phản ứng qua đông và qua hè đều được chuẩn bị từ khi thời tiết còn chưa lạnh hoặc chưa quá nóng, thức ăn còn phong phú. Cái gì là nhân tố báo hiệu? Sự thay đổi độ dài chiếu sáng trong ngày chính là nhân tố báo hiệu chủ đạo, bao giờ cũng diễn ra trước khi có sự biến đổi nhiệt độ và do đó đã dự báo chính xác sự thay đổi mùa.

? Ở Hà Nội, sâu sòi hoá nhộng ngủ đông vào đầu tháng 11 dương lịch khi lá sòi bắt đầu rụng, cho tới nửa đầu tháng 3 mới nở bướm, khi đó lá sòi cũng vừa đâm chồi xanh. Ngày ngắn ở tháng 11 đã báo hiệu cho sâu hoá nhộng vào giấc ngủ đông và ngày dài ở tháng 3 báo hiệu cho cây sòi đâm chồi và nhộng nở bướm. Bướm đẻ trứng, 1 tuần sau, khi sâu non nở ra thì lá sòi đã sum suê, sâu non tha hồ ăn và phát triển.

? Nhịp điệu mùa làm cho hoạt động sống tích cực của sinh vật trùng khớp với lúc môi trường có những điều kiện sống thuận lợi nhất.

? Nhiều động vật có hoạt động sinh dục theo mùa. Đặc tính này đã được ứng dụng khá rộng rãi trong chăn nuôi. Ngày dài nhân tạo đã được các xí nghiệp gà ứng dụng để thúc gà đẻ quanh năm.

? Đặc điểm hoạt động theo chu kỳ ngày đêm là sự thích nghi sinh học phức tạp với sự biến đổi theo chu kỳ ngày đêm của các nhân tố vô sinh.

? Có nhóm sinh vật hoạt động tích cực vào ban ngày, có nhóm vào lúc hoàng hôn và có nhóm vào ban đêm. ? Cũng như đối với chu kỳ mùa, ánh sáng giữ vai trò cơ bản trong nhịp chu kỳ ngày đêm. Trong quá trình tiến hoá, sinh vật đã hình thành khả năng phản ứng khác nhau đối với độ dài ngày và cường độ chiếu sáng ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Do đó sinh vật đơn bào đến đa bào đều có khả năng đo thời gian như là những “đồng hồ sinh học”. Nhiều cây nở hoa vào thời gian xác định (hoa dạ hương vào lúc tối, hoa mười giờ vào khoảng 10 giờ sáng, hoa phù dung sớm nở tối tàn...).

? Ở động vật, cơ chế hoạt động của “đồng hồ sinh học” có liên quan tới sự điều hoà thần kinh - thể dịch. Sự nhận cảm ánh sáng của tế bào thần kinh, tiếp đó là ảnh hưởng của tế bào thần kinh tới các tuyến nội tiết làm tiết ra các hoocmôn tác động lên cường độ trao đổi chất. Ở thực vật, các chức năng điều hoà là do những chất đặc biệt tiết ra từ tế bào của một loại mô hoặc một cơ quan riêng biệt nào đó.

? Nhịp sinh học của sinh vật mang tính di truyền. Những động vật như ong, thằn lằn được nuôi trong điều kiện có độ chiếu sáng ổn định vẫn giữ nhịp điệu ngày đêm như khi sống trong thiên nhiên.
 
Anh Long.
Đọc kĩ bài trên thì có thể thấy tất cả các câu đều có ý đúng.
?
? ? ? ?" Nhịp sinh học của sinh vật mang tính di truyền. Những động vật như ong, thằn lằn được nuôi trong điều kiện có độ chiếu sáng ổn định vẫn giữ nhịp điệu ngày đêm như khi sống trong thiên nhiên."
?Nhưng ở đây nó chỉ mang tính di truyền thôi chứ không phái phải là "yếu tố di truyền của loài quy định".
?
? ? Câu 9: Nguyên nhân của nhịp sinh học ngày đêm là do:
A. Sự thay đổi mang tính chu kì của môi trường.
B. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm.
C. Do yếu tố di truyền của loài quy định.
D. Do cấu tạo của cơ thể thích nghi với hoạt động ngày hoặc đêm.

Do vậy câu A có lẽ là chính xác nhất.
? ? ? ?Môi trường sống của mọi sinh vật trên trái đất đều thay đổi có tính chu kỳ, chủ yếu là chu kỳ mùa và chu kỳ ngày đêm. Khả năng phản ứng của sinh vật một cách nhịp nhàng với những thay đổi có tính chu kỳ của môi trường là nhịp sinh học.
 
Đọc kỹ bài của mình bạn sẽ thấy mình không hề đề cập đến câu "Nhịp sinh học mang tính di truyền" mà chỉ đề cập đến câu "1 số loài sống trong điều kiện chiếu sáng ổn định vẫn giữ chu kì ngày đêm như trong tự nhiên". Và cái này cũng giống như 2 ví dụ về "cây sống hoàn toàn trong bóng tối" và "người sống dưới mặt đất 3m với 1 bóng đèn thắp sáng liên tục", chứng tỏ nhịp ngày đêm không chỉ phụ thuộc vào ánh sáng.
Giải thích cụ thể thì mình nói ở trên rồi, không muốn nhắc lại đâu!

"Môi trường sống của mọi sinh vật trên trái đất đều thay đổi có tính chu kỳ, chủ yếu là chu kỳ mùa và chu kỳ ngày đêm. Khả năng phản ứng của sinh vật một cách nhịp nhàng với những thay đổi có tính chu kỳ của môi trường là nhịp sinh học."

Bạn nêu định nghĩa ra nhưng lại không đọc kỹ nó. Qua định nghĩa trên, ta thấy rõ 2 vế và cũng là 2 nguyên nhân gây ra nhịp sinh học đó là thay đổi của môi trườngkhả năng phản ứng của sinh vật
Mà khả năng phản ứng của sinh vật chẳng phải được quy định bởi các yếu tố di truyền hay sao ???

P/s: Tuy nhiên, mình cũng phải công nhận bạn chăm gõ máy thật đấy ?8)
 
Cái kho sách của SHVN chạy bằng ftp. Sách kinh điển nhiều lắm. user/pass tự lục, luật 4rum không cho phép phát tán acc. Tự lục trước khi xin sách. Các tiền bối vất vả lôi về, miếng ăn dâng tới miệng, đánh rớt ráng chịu.
 

Facebook

Thống kê diễn đàn

Threads
11,649
Messages
71,548
Members
56,917
Latest member
sv368net
Back
Top